Nầy công
dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi
Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân
sống
V́ tương lai Quốc dân, cùng xông pha
khói tên
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững
bền
………………….
Công dân
ơi mau hiến thân dưới cờ
Công dân ơi mau làm cho cơi bờ
Thoát cơn tàn phá
Vẻ vang ṇi giống
Xứng danh ngàn năm gịng giống Lạc Hồng
“Quốc ca Việt
Nam” là bài nhạc mở đầu cho một cuốn băng
những bản hùng ca thời chiến. Tôi thường t́m
đến băng nhạc này mỗi khi ḷng xôn xao nhớ
về quê hương và những ngày xưa yêu dấu.
Trong lời ca điệu nhạc đầy hùng khí như vẫn
c̣n vang dội những bước chân hiên ngang,
nhịp nhàng, dáng vấp kiêu hùng, của những
chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, những anh hùng
của thời đại chúng tôi. Băng nhạc này do một
cựu Đại tá Việt Nam Cộng Ḥa đă t́m thâu lại
những bản nhạc của Cục Chính Huấn và gửi
tặng, khi ông biết tôi rất nhớ những bản
hùng ca ngày cũ. Đă bao nhiêu năm rồi, tôi
vẫn giữ ǵn nó như một món quà quí, và đă
sang lại thêm băng thứ hai để cất giữ, pḥng
khi băng hư hoặc lạc mất.
Sống trên quê
hương mới, thỉnh thoảng đi dự những buổi lễ
hay những buổi họp mặt cộng đồng của người
Việt, tôi có dịp hát lại bài Quốc Ca Việt
Nam. Mỗi lần cất tiếng hát, trong cảnh trang
nghiêm của lá cờ vàng ba sọc đỏ, ḷng tôi
lại rưng niềm cảm xúc. Bài hát này tôi đă
hát biết bao lần, dưới lá cờ thiêng liêng
trên đất nước ḿnh, từ thuở bé thơ khi chưa
hiểu đủ nghĩa lời ca, cho đến dài theo tháng
năm của tuổi lớn lên, vào đời, mà mỗi khi
hát, nghe mỗi lời ca rộn ràng xao động từ
trong tâm thức. Từ khi Sài G̣n bị đổi tên,
bài Quốc Ca Việt Nam không c̣n được hát nữa. Gần
mười năm sau cuộc đổi đời, với bao cố gắng
miệt mài theo đuổi mục đích chính của ḿnh,
cuối cùng tôi cũng đă đến được bến bờ tự
do. Và nơi đây, trong trại tị nạn trên đất
Thái, lần đầu tôi đă hát lại bài quốc ca
Việt Nam dưới lá cờ vàng với những ḍng nước
mắt trong niềm cảm xúc dạt dào.
… …
Rồi cái ngày
mà chúng tôi trông đợi cũng đă đến. Mười giờ
sáng, tất cả khoảng chín mươi người, đươc
tập trung lại, hàng một, nối đuôi nhau đứng
dài sau cổng trại. Đây là trại chuyển tiếp
thứ hai của nhóm chúng tôi, nơi dành cho
những người vượt biển, đă không may tắp vào
đất Thái. Nắng tháng ba trong vắt, sóng
biển nhấp nhô theo làn gió nhẹ, mây trời
cùng sóng nước xanh ngắt một màu. Mặt biển
SongKhla sáng nay mang đầy vẻ b́nh yên, hiền
ḥa, không mang sắc nét của biển trong những
ngày thiên nhiên giao động, trở ḿnh. Nhưng
cũng đâu biết được, có thể bên sâu dưới mặt
nước êm đềm kia, đang có những đợt sóng ngầm
mạnh mẽ, chờ đợi thời khắc để thả tung niềm
phẩn nộ.
Trên bờ biển
này, nơi tảng đá kia, hơn một tháng nay, tôi
vẫn thường ngồi đó, chờ mặt trời lên mỗi sớm
mai, ngắm buổi chiều tàn khi vầng dương dần
ch́m bên kia đỉnh núi. Đó là hạnh phúc nhỏ
nhoi của tôi trong những ngày dài chờ đợi
nơi đây. Ḷng chợt nghe bùi ngùi cảm xúc,
khi nghĩ đến lúc phải chia tay với nơi chốn
tạm dừng chân này, dù chỉ hơn một tháng trời
ngắn ngủi.
Hai nhân viên người Thái, súng lủng lẳng bên
hông, cẩn thận kiểm điểm lại số người, ra
hiệu cho chúng tôi tiến về bốn chiếc xe GMC
chờ sẳn. Tôi đảo mắt thêm một ṿng, ngắm
vội thêm phút cuối cái đẹp thơ mộng trên bờ
biển này, một trại chuyển tiếp trên bước
đường tị nạn của tôi. Xa xa, mấy thân dừa lả
ngọn, đong đưa những cành lá xanh mướt như
vẫy chào chia biệt.
Chỗ ngồi đă ổn
định, tấm bạt sau xe được kéo xuống, đoàn xe
chuyển bánh. Ngồi trong chiếc xe phủ kín
khiến tôi liên tưởng đến những đoàn xe GMC,
Motovah, tải đưa những người lính thất trận
của Việt Nam Cộng Ḥa, di chuyển đến các
trại tù trên quê hương ḿnh sau khi nước nhà
thống nhất.
Xe chạy khá
lâu, dằn xốc trên những đoạn đường gập ghềnh
sỏi đá, chợt giảm tốc độ, chậm lại rồi dừng
hẳn. Bốn nhân viên Thái có nhiệm vụ chuyển
người, nhảy xuống trước. Họ nói chuyện lao
xao bằng ngôn ngữ riêng. Chừng mười lăm phút
sau, tấm bạt phủ sau xe được kéo lên. Chúng
tôi lần lượt xuống xe, xếp hàng một, trước
một cổng sắt thật lớn. Thủ tục giao và nhận
người vừa xong th́ trời đă xế chiều nên
chúng tôi không có dịp nh́n ngắm cảnh vật
chung quanh. Tuy nhiên quang cảnh con đường
ṃn vắng vẻ dẫn vào đây cho thấy sự biệt lập
của nơi chốn này. Chúng tôi lần lượt đi qua
chiếc cổng. Sự kiên cố và lớn lao của nó gây
cho tôi cái cảm giác sợ hăi về đời sống tù
nhân và sự giam cầm.
Ánh sáng đầu
ngày đánh thức mọi người. Sau khoảng ba
tiếng đồng hồ chợp mắt, tôi đă nghe ḿnh
tỉnh táo hơn. Người đại diện khu nhà tôi ở,
đến dặn ḍ chỉ dẫn về giờ giấc và những sinh
hoạt trong ngày. Buổi sáng trước giờ chào cờ
là th́ giờ cho mọi người quét dọn, làm vệ
sinh quanh trại. Mỗi ngày hai buổi, 8 giờ
sáng và 5 giờ chiều, cả trại phải đứng xếp
hàng trước khu nhà của ḿnh để chào cờ Thái. Loa
phóng thanh kêu gọi tập họp chào cờ trước
mười lăm phút. Nhân viên Thái giữ trật tự
trại có nhiệm vụ tuần tra, với chiếc roi
trên tay, đi kiểm soát quanh các dăy nhà,
nơi vệ-sinh v.v... Thật không may cho những
ai bị bắt gặp c̣n lảng vảng đâu đó trong giờ
này. Trong giờ khắc chuẩn bị chào cờ, nh́n
sự trống vắng trên các con đường đi lại, sự
yên lặng hoàn toàn trong sân, từng dăy người
xếp ngay hàng thẳng lối, người ta có thể
liên tưởng đến cái kỷ luật ở sân trường quân
đội. Tôi đă nghe kể lại nhiều câu chuyện và
cũng đă chứng kiến nhiều h́nh phạt của những
trường hợp vi phạm kỷ luật trại tại đây.
H́nh phạt được áp dụng như cạo đầu, treo tay,
cho đứng ngoài nắng đến ngất xỉu, bị quất
bằng roi cá đuối, v..v.. Tôi thấy thương và
nghe xót xa cho thân phận người ḿnh. Những
người đến được nơi này, bằng những con tàu
mỏng manh trên biển cả, hay bằng đôi chân
máu chảy lặn lội qua bao cánh rừng sâu, họ
đă trải qua biết bao hiểm nguy, đối diện với
sống chết, đói khát, cướp bóc và hăm hiếp.
Giờ đây họ c̣n bị người Thái đối xử như tù
nhân trong các trại tị nạn khốn khổ này. C̣n
những gian nan nào nữa tôi chưa đươc biết
của gần hai triệu người dân Việt đă xả thân
đi t́m TỰ DO ?!!. Ôi dân tộc tôi, những
người dân khốn khổ của một nước nhược tiểu,
đă phải chiến đấu triền miên với đói nghèo,
chiến tranh và tang tóc. Giờ đây khi nước
nhà thống nhất, người dân tôi không được
hưởng thái b́nh. Chúng tôi đang phải tuôn ra
biển, trốn vào rừng sâu, đi vào cái chết để
t́m sự sống, một đời sống tự do, nhân bản.
Trong thời
gian trại đóng cửa, không nhận thêm người,
cũng không giải quyết cho người đi, dân tị
nạn biết ḿnh sẽ phải ở đây lâu nên đă tranh
đấu xin mở trường ốc trong trại, để con em
họ có nơi chốn học hành. Nhóm đại diện trại
đă bằng nhiều cách, thuyết phục được vị
trưởng trại về đề nghị này, và ngôi trường
đă được thành h́nh vài năm trước. Trường mở
rộng thêm lớp, đủ cho hai buổi sáng chiều. Sau
vài ngày nhập trại, biết được có trường sở,
tôi đă liên lac với người có trách nhiệm để
xin một chân dạy thiện nguyện. Hai tuần lễ
sau, tôi được thông báo đến nhận lớp. Trường
lớp được xây cất đơn sơ với cột kèo bằng tre,
lá. Giờ chào cờ sáng chiều của trường cũng
cùng giờ chào cờ của trại. Tôi xúc động biết
bao khi biết được mỗi ngày thứ hai, sau phần
chào cờ Thái c̣n có thêm phần chào cờ Việt. Được
kể trước đây, nhóm đại diện trường phối hợp
với đại diện trại của người ḿnh, đă khổ
công tranh đấu với người Thái ở đây, để xin
được phần danh dự chào lá quốc kỳ của Việt
Nam Cộng Ḥa trong trường học. Đây là một
thành tích đáng kể của cộng đồng người Việt
tị nạn của trại trong thời điểm này.
Trong sân
trường của trại tị nạn Sikiew, buổi sáng
tháng tư, nắng trong vàng màu lụa mới, mang
đầy nét b́nh yên của một nơi chốn không
chiến tranh. Trên hai trụ cờ, lá cờ của đất
nước Thái và lá cờ vàng ba sọc của VNCH đang
nhẹ bay trong gió. Nh́n lá cờ với màu sắc
thân quen ngày nào đang tung bay trên một
đất nước không phải là quê hương ḿnh, tôi
bỗng nghe ḷng ḿnh nao nao sóng vỡ. Trên lá
cờ như ẩn hiện những h́nh ảnh của một chiến
trường đẫm máu, thân thể những người lính
ngă gục với những vết thương máu chưa kịp
chảy. H́nh ảnh những người lính, âm thầm,
từng đêm, tay gh́ súng, mắt không rời bóng
tối, để giữ ǵn từng tấc đất cho quê hương.
Đâu đây như có tiếng kèn tử sĩ thê lương,
bên h́nh ảnh người quả phụ, đầu phủ tang
trắng bên mộ huyệt, đưa tay nhận lá cờ được
xếp lại ngay ngắn từ nắp quan tài của người
chồng vừa tử trận. Và đứa trẻ thơ đầu chít
khăn tang, ngơ ngác nh́n chiếc quan tài đựng
xác người cha, đang từ từ được phủ đầy đất
mà chưa đủ trí khôn để hỏi tại sao!!. Tôi
thấy thấp thoáng h́nh ảnh những người lính
trận, mặt đầy hào khí, đang dựng lại ngọn cờ
trên cổ thành Quảng-Trị năm nào khi vùng đất
nầy được tái chiếm. Như đâu đây vẫn c̣n âm
vọng bi thương của những tiếng đạn cuối cùng
từ những đứa con tổ quốc, chọn cái chết bên
cạnh lá cờ, trong ḷng đất mẹ trước cơn hồng
thuỷ. Biết bao xương máu đă đổ ra, biết bao
hệ luỵ kéo theo, biết bao cuộc đời đă nằm
xuống để giữ vững màu cờ, sao giờ đây lá cờ
đang tung bay ở một nơi chốn không phải trên
quê hương đất mẹ!!!.
Bài quốc ca
Thái từ loa phóng thanh vừa dứt. Một giọng
ca cất lên bắt nhịp cho bài quốc ca Việt
Nam:
“Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời
sông núi….”
Tôi cất giọng
hát lớn theo. Những lời ca bỗng trở nên quá
thân thương, quá ngọt ngào, quá hùng tráng!.
Những lời ca đang trên môi miệng tôi bỗng
trở nên ấm, nồng. Cảm xúc trong tôi chợt
dâng lên, oà vỡ, thành những gịng lệ chảy
dài trên môi má. Ôi những lời ca mà tôi
tưởng chừng không bao giờ được hát nữa!. Trong
tôi man mác cái cảm giác của sự trở về, gặp
lại người thân đă ngỡ như xa rời vĩnh viễn. Tôi
nghe ḿnh nấc lên theo tiếng ca, tiếng nấc
tức tưởi trong trạng thái vui mừng lẫn tủi
thân của một trẻ thơ lạc mẹ vừa được t́m về. Nh́n
màu sắc thân quen của màu cờ, tôi nghe lại
một chút an ổn và niềm hy vọng. Trên đường
lưu vong lạc loài nơi đất khách, tôi đă mang
theo được trong tôi cả cái quê hương khốn
khổ tội t́nh. Hồn thiêng sông núi, anh linh
của những người đă nằm xuống cho hai chữ TỰ
DO, như đang quyện lấy chúng tôi và lá cờ
vàng ba sọc đang tung bay ngạo nghễ.
Quốc ca
quyện lấy cờ vàng
Đường lưu vong vẫn ngập tràn hồn quê
Vương Hồng-Ngọc |