Tám Hổ
Gia đ́nh tôi đông anh
em. Tôi yêu thương nhất là người em thứ tám. Tôi thương chú Tám hơn v́ chú
có tấm ḷng ngay thẳng, hiền lành, chịu khó nhưng số phận lại hẩm hiu.
Chú lấy vợ, được đứa con trai th́ gia đ́nh găy đổ. Lỗi
một phần ở chú. Ở thời buổi này có người đàn bà nào chịu chung sống trọn đời
với một người đàn ông chỉ có tấm ḷng! Vật chất nữa chứ! Chú ngồi yên lặng –
sự yên lặng chiếm gần hết tuổi thanh xuân của chú – nh́n Phụng, người vợ mà
chú yêu thương rất mực, ra đi.
Tôi trở về, sau bảy năm cải tạo – đền nợ máu với nhân
dân – cán bộ Cộng sản nói thế. Với số vốn nhỏ nhoi ban đầu, tôi mua bán tre,
lá, tầm vông. Rồi từ từ bán thêm vật liệu nặng như sắt, xi măng, đá, gạch,
ngói, cát...Sau một cuộc chiến tranh dai dẳng, ḥa b́nh trở lại, gia đ́nh
nào cũng cần xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau hai năm làm ăn buôn bán, gia đ́nh
tôi đă khá giả. Tôi mua thêm một miếng đất, dự trù cất cho chú Tám một căn
nhà nhỏ, vách ván, lát gạch, cách nhà tôi không xa và đồng thời cưới vợ cho
chú. Tôi thật ái ngại khi nh́n thấy chú trong cảnh gà trống nuôi con. Chú
tươi cười từ chối đề nghị của tôi. Chú quyết tâm bám trụ ở thành phố Sài
G̣n. Chú bước thêm bước nữa với một người đàn bà Tàu lỡ thời, dung nhan rất
khiêm tốn.
Vợ chồng chú có một căn bán vật dụng lao động như cuốc,
xẻng, dao, liềm, gầu...tọa lạc gần cầu Ba Cẳng, chợ Kim Biên. Nói là một căn
cho nó oai, chứ thực ra rất nhỏ hẹp, nếu đứng giữa nhà dang tay mặc áo cũng
đụng hai vách bên.
Có dịp lên thành phố, lần nào tôi cũng mang theo quà,
ghé thăm vợ chồng chú. Tôi mừng thầm v́ chú đă có đôi và cuộc sống không đến
nỗi quá chật vật. Bản chất tôi rất hiếu khách, nhưng vào dịp tất niên hoặc
ngày giỗ kỵ, tôi không mời ai cả dù là bạn hữu quí mến hoặc hàng xóm thân
quen, chỉ có anh em chúng tôi quây quần bên nhau. Anh em cả năm xuôi ngược,
mưu sinh, chỉ có dịp lễ này để gặp mặt, nói với nhau những lời thân thiết,
phụ lực nhau giải quyết những điều khó khăn với tấm ḷng thương yêu đùm bọc.
Có sự hiện diện của người ngoài, làm sao anh em dám thổ lộ hết những vui
buồn tốt xấu. Trong lúc cúng, ngồi chờ nhang tàn, hoặc khi ngồi vào bàn ăn,
tôi thường kể lại cho các em nghe về những kỷ niệm gia đ́nh mà lúc đó các
chú c̣n nhỏ không nhớ ǵ. Những chuyện tôi kể thường liên quan đến công lao
khó nhọc của cha mẹ tôi lo nuôi dạy đàn con. Mẹ tôi, người đàn bà tuyệt
diệu, suốt đời hy sinh cho chồng con. Mẹ tôi mất năm bà mới 54 tuổi, trong
lúc mấy người con trai lớn của bà đang tại ngũ, xông pha ngoài trận mạc, có
lần tôi về phép thăm mẹ tôi đang nằm trên giường bệnh. Nắm tay tôi nước mắt
rưng rưng, bà nói:
- Nghe súng nổ ở đâu, má tưởng tượng mấy con đang ở đó,
má lo lắng quá.
Ôi! Biển dầu rộng, nhưng làm sao sánh được bằng tấm
ḷng thương con mênh mông của người Mẹ hiền.
Cha tôi, với 5 năm tù Quốc Gia, bị bắt trong cuộc hành
quân của Đại tá Le Roy. Ông bị bắt v́ không nỡ bỏ tôi lại một ḿnh. Với bản
chất một nông dân chất phác, cố bám ruộng vườn để sống, bị bắt, ông mang bản
án Việt Minh. Ở tù ra, cha tôi làm thợ, siêng năng cần cù, đội mưa phơi
nắng, đau không dám nghỉ. Với số lương kiếm được hầu như cố định hằng tháng,
ông trao hết cho Mẹ tôi để nuôi đàn con đang sức lớn như thổi.
Một lần cuối năm, t́nh cờ nghe ba tôi than:
- Tết đến rầu quá!
Trong dịp gần Tết, ba tôi phải đi làm thêm cả ngày thứ
bảy và chủ nhật để kiếm thêm tiền sắm sửa Tết và may cho anh em chúng tôi
mỗi đứa một bộ đồ mới mặc Tết.
Tôi hỏi han về đời sống của các em. Người nào khá phải
giúp đỡ người kém may mắn. Tôi làm lực lượng tổng trừ bị. Anh em tôi cho đến
giờ vẫn duy tŕ nếp sống tương trợ đó. Sống bám ở thành phố được hai năm,
gia đ́nh chú Tám bị chính quyền ép phải đi vùng kinh tế mới ở Định Quán,
giáp ranh tỉnh Lâm Đồng. Số chú quả là số con rệp. Tôi nhận được tin báo vào
buổi trưa, trong thư chú không nói rơ địa chỉ, thành thử dù rất nóng ḷng,
tôi cũng không biết cách nào đi thăm để yểm trợ.
Đến ngày giỗ thân phụ, anh em chúng tôi ngồi ngóng đến
chuyến xe đ̣ cuối cùng chú Tám mới về tới. Ngoài bánh, mứt, trà sắp lên bàn
thờ cúng cha mẹ, chú Tám c̣n mang về biếu tôi một b́nh rượu to ngâm sáu con
b́m bịp, với một lít mật ong nguyên chất.
Anh em ngồi quây quần nghe chú kể về cuộc sống gian
nan, khó khăn trong những ngày đầu đến sinh sống ở vùng kinh tế mới. Một vài
gia đ́nh có người chết v́ bệnh kiết lỵ hoặc sốt rét. Nhiều gia đ́nh không
chịu đựng nổi cuộc sống kham khổ, lẻn trốn về Sài G̣n. Riêng gia đ́nh chú,
với số đồ sắt bán ế trước đây c̣n tồn tại, chú chở theo lên bán rất được
giá. Chú lại mua thêm đồ để bán như xoong, nồi, quần áo lao động, giầy bố,
một số thuốc Tây thông dụng như thuốc sốt rét, đau bụng, kiết lỵ và cảm cúm.
Vốn buôn bán làm ăn của chú bây giờ khá hơn hồi c̣n nấn ná ở Sài G̣n. Anh em
đều mừng rỡ, gọi đùa chú là “người hùng vùng kinh tế mới”.
Sáu tháng sau, tôi lên thăm chú. Trời ngả về chiều, tôi
tới Định Quán. Đến vùng kinh tế mới Kim Biên, cách huyện trên 10 cây số về
hướng Tây, phương tiện duy nhất ở đây là xe đạp ôm. Dọc đường tôi hỏi thăm
người chạy xe về tin tức của chú Tám:
- Tám Nghĩa, trước bán đồ sắt ở chợ Kim Biên lên đây
hiện đang ở đâu, chú có biết không?
- Biết, biết! Anh Tám Hổ đó mà, có quán cà phê và tạp
hóa ở gần b́a rừng.
Tôi ngạc nhiên về cái tục danh Tám Hổ, nó có vẻ ngang
tàng anh chị quá, nhất định không phải chú ấy rồi. Chú Tám hiền đến độï
trước đám đông chú thường yên lặng, cười xă giao. Lúc c̣n đi học tiểu học,
chú thường đi sớm đến chùa Viên Minh để được chia phần khất thực vào giờ độ
ngọ. Các vị sư nói chú có nhiều Phật tính, nhất định chú Tám, em tôi không
phải là Tám Hổ.
Sau gần hai tiếng đồng hồ ngồi trên xe đạp dồn xóc ê
ẩm, trời sụp tối. Người lái xe quẹo vào cái quán có đèn “măng sông” sáng
choang, dừng lại gọi lớn:
- Tám Hổ ơi! Có anh ở Trà Vinh lên thăm nè.
Chú Tám Hổ bước ra, em trai tôi đây mà! Hai anh em mừng
rỡ nắm tay nhau:
- Anh lên, em mừng và ngạc nhiên quá!
Tôi thắc mắc:
- Có vụ ǵ mà có tục danh Tám Hổ nữa đây?
Chú cười:
- Bí mật! Anh vào tắm cho khoẻ, em sẽ tường thuật cho
anh nghe sau.
Căn nhà chú đúng là quán hàng xén, đầy đủ đồ gia dụng
cần thiết và thực phẩm khô. Tôi chú ư trên vách, cạnh bàn thờ có treo một
khẩu súng săn bóng loáng.
Bữa cơm, canh rau nấu với tôm khô, lạp xưởng chiên. Đặc
biệt có bia lai rai với khô cá lóc tôi mang lên. Rót tiếp bia cho tôi, đoạn
chú chỉ xuống gầm bàn, nói:
- Em có tên Tám Hổ v́ nuôi nó trong nhà đó.
Tôi ngó xuống giựt ḿnh, co chân lên ghế. Một con cọp
vằn đen lông vàng to bằng con chó ta, đang nằm cuộn ḿnh dưới gầm bàn. Chú
cười, cụng ly với tôi rồi bắt đầu kể:
- Lần trước về ăn đám giỗ ba, trở lên Sài G̣n bổ đồ
hàng xén cho tiệm, em mua được cây súng săn giá rất rẻ của một người thua
bạc cần tiền. Em rất thích đi săn. Hơn nữa ở đây nhiều chim, gà rừng, mễn,
nai, cheo...Một ngày đi săn xông xáo, lớp ăn, lớp xẻ khô, gia đ́nh em dùng
cả tháng chưa hết. Một hôm đang mải mê theo dấu một con công, rất sâu trong
rừng, bỗng em thấy đám cỏ tranh lay động và từ xa em nghe tiếng kêu ăng ẳng
như tiếng chó con. Em liền chạy đến th́ gặp... nó đây! (Chú vừa nói vừa chỉ
vào con cọp đang nằm dưới gầm bàn, lâu lâu lại đưa chân trước lên vuốt mép).
Hẫng một phút v́ bất ngờ, em vội nhào tới ôm nó lên, bỏ cả xâu chim chiến
lợi phẩm, chạy bất kể thân, v́ em biết thế nào mẹ nó cũng lẩn quất không xa.
Cọp mẹ mà biết em bắt con của nó th́ giờ này em không c̣n được ngồi đây uống
bia với anh. Về đến nhà, em để nó vào cái cần xé, nằm bật ngay trên ván v́
mệt, muốn kiệt sức.
- Hớp một ngụm bia, chú kể tiếp:
- Anh không thể tưởng tượng được, trong tuần lễ đầu
tiên lúc mới bắt nó về, tụi em không làm ăn buôn bán ǵ được cả. Người hiếu
ḱ kéo tới coi không ngớt suốt ngày, mỗi người hỏi một vài câu, trả lời thôi
cũng muốn khùng. Tuần rồi Công an huyện cho người xuống nói thừa lệnh trên
bắt nó về cho Sở thú Sài G̣n nuôi để nhân dân tham quan. Em biết họ đặt
điều, bắt đem đi bán cho khách ngoại quốc. Không có lệnh trên lệnh dưới nào
cả. Em nói nó là vật sở hữu của em, không ai có quyền bắt cả. Sở thú Sài G̣n
có mần thịt sư tử, cọp bán xương cho mấy ông ba tàu Chợ Lớn nấu cao hổ cốt
th́ bắt cọp nữa làm ǵ? Thấy em có phản ứng quyết liệt, họ thụt, nhưng bắt
em kư giấy cam kết nếu nó làm ǵ nguy hiểm cho nhân dân, em hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Chú cúi xuống đưa tay xoa xoa đầu cọp và nói tiếp:
- Em cho nó uống nước cơm pha đường thẻ, ăn cơm với
thịt hoặc cá đă nấu chín. Tuyệt đối không cho ăn thịt sống. Nó mau lớn và
hiền lắm. Ở đây, đa số đất khai hoang đều trồng bắp và đậu phộng, thu hoạch
cũng khá. Khổ nỗi khỉ và heo rừng thường tới phá hoa màu. Mỗi buổi sáng, em
phụ vợ em dọn quán và pha cà phê, cơm nước xong, em vác cuốc xẻng, đồng thời
đem theo đồ ăn trưa. Em ra rẫy, nó lững thững đi theo sau. Một điều lạ,
không biết v́ trông thấy hay ngửi thấy mùi phân và nước tiểu của cọp nên khỉ
và heo rừng không dám bén mảng tới phá nữa. Mấy công đất em trồng bắp và đậu
phộng lên tốt, nguyên vẹn. Tiếng đồn lan ra khắp vùng, nhiều người tới năn
nỉ nhờ em cho mướn nó đi biểu diễn để khỉ và heo rừng sợ không dám tới phá
hoa màu của họ nữa. Em sẵn ḷng giúp họ nhưng khổ nỗi là không có em, ai dẫn
nó cũng không chịu đi. Sau vụ thu hoạch hoa màu, chủ rẫy mua đường, sữa, bột
đậu nành đến cho nó bồi dưỡng. Nó là cọp cái, em đặt cho nó cái tên Gina v́
trước em rất thích nữ tài tử Gina Lolobrigida.
Trong thời gian một tuần lễ ở lại chơi với chú, tôi đi
săn với Tám Hổ hai lần và dĩ nhiên có cả Gina đi theo. Tôi vừa bắn rớt con
gà rừng, Gina nhanh như chớp phóng tới ngoạm con gà mang đến cho tôi.
Ngày về, chú cho tôi một con chim trĩ, hai con két, hai
lít mật ong làm quà. Chú và Gina tiễn tôi tới bến xe đạp ôm. Đi được một
quăng, ngoái lại tôi thấy chú Tám cười vẫy tay và h́nh như Gina vẫy đuôi.
Ít lâu sau, có người dẫn một du khách Đài Loan đến ngỏ
ư thương luợng trả mười cây vàng để mua Gina. Tám Hổ từ chối, nhất định
không bán. Chú bảo Gina là người bạn quư của gia đ́nh và không ai lại đi bán
bạn bao giờ.
Tám Hổ mua một máy chụp h́nh lấy liền hiệu Polaroid để
chụp h́nh lưu niệm cho khách. Người dân thành phố về vùng kinh tế mới thích
chụp h́nh đứng bên Gina để gửi tặng thân nhân như một bằng chứng đời sống
nơi hoang dă. Trẻ nít th́ khoái chụp h́nh ngồi trên lưng cọp, vuốt râu
hùm...Sáng kiến chụp h́nh lưu niệm này đă đem lại số lợi tức đáng kể về cho
gia đ́nh Tám Hổ.
Một năm sau, nhân ngày giỗ Mẹ, Tám Hổ mang về nhiều quà
cáp, nhưng nét mặt dường như không được vui. Tối đến, anh em quây quần tṛ
chuyện và uống trà, Tám Hổ buồn bă kể chuyện về Gina:
- Cách nay một tuần, con Gina đă bỏ vào rừng biệt tăm.
Trước đó, Gina lộ vẻ quạu cọ, cắn xé thùng giấy, bao bố...Ban đêm nó không
ngủ, đi ṿng ṿng, sục xạo...dường như đến thời kỳ rượng đực.
Một hôm tôi đang ngồi loay hoay sửa lại giàn hoa trước
nhà th́ nhận được bức điện tín của chú Tám gửi về với nội dung cho biết:
“Gina trở về. Có bầu!”.
Tôi nhắn cho thân nhân biết tin vui, mọi người đều mừng
cho Tám Hổ đồng thời thư từ liên lạc, theo dơi câu chuyện chửa đẻ của Gina,
say sưa như theo dơi truyện thần thoại xứ Ba Tư ngày xưa.
Tết năm đó, tất cả anh em chúng tôi bao một chuyến xe
lên vùng kinh tế mới Kim Biên, Định Quán thăm gia đ́nh Tám Hổ. Cơ ngơi của
chú bề thế khang trang. Căn nhà ba gian, cột tṛn, đánh vẹc-ni màu hổ phách
bóng loáng. Nền nhà lát gạch, có sắm máy phát điện nhỏ. Chúng tôi vô cùng
kinh ngạc khi thấy Gina cao lớn, oai phong như một bà chúa sơn lâm chạy ra
vẫy đuôi mừng, theo sau là hai chú cọp con. Tám Hổ cho biết cái cơ ngơi này
được tạo dựng khang trang, phần lớn là do công lao đóng góp của ba mẹ con
Gina. Hai chú cọp con, Tám Hổ đặt tên là Pelé và Maradona.
Tám Hổ chụp h́nh cho khách mệt nghỉ. Nhiều người trước
đây đă chụp h́nh đứng chung với Gina, nay lại muốn chụp nữa để có tấm h́nh
bồng bế Pelé và Maradona trên tay, đứng bên con Gina cao lớn, bệ vệ, oai
phong.
Thế rồi một đêm mưa, ḥa trong tiếng sấm chớp xé trời,
người ta nghe như có tiếng rống của cọp đực gần phía b́a rừng. Trước đó một
tuần, Tám Hổ thấy có dấu chân cọp lớn hơn dấu chân con Gina ở phía ngoài
rào. Sáng hôm sau, mải lui cui pha cà phê, có khách tới xin chụp h́nh với mẹ
con Gina. Tám Hổ ngó quanh không thấy Gina đâu, chạy sục sạo t́m kiếm, ra
cửa rào th́ thấy dấu chân mới của Gina, Pelé, Maradona và thêm dấu chân cọp
to hơn hướng về phía rẫy và lẩn khuất phía b́a rừng. Gina dẫn hai con đi
rồi! Tám Hổ nằm liệt giường, đóng cửa tiệm một tuần. Được tin, tôi viết thư
an ủi chú. Ô! Sông có khúc, th́ người cũng có lúc. Gina giúp đỡ chú như thế
quá đủ rồi. Tuy là loài vật, Gina cũng phải lo cho hạnh phúc và đời sống
riêng tư của nó nữa chứ. Môi trường thích hợp nhất với Gina là rừng xanh và
bóng cây già, với đồi với suối thiên nhiên hùng vĩ, chứ đâu phải nép ḿnh
trong căn nhà ba gian của chú! Tám Hổ mở cửa tiệm buôn trở lại. Có những
buổi chiều, chú ngồi yên lặng cả giờ, đôi mắt xa xăm nh́n về phía rừng, nơi
Gina đă ra đi cũng như trước đây Phụng, người vợ đầu tiên mà chú rất mực yêu
thương đă ra đi. Đối với người và thú vật, tuy t́nh cảm lưu luyến có khác,
nhưng sự ra đi nào mà chẳng để trong ḷng kẻ ở lại cái cảm giác bơ vơ hụt
hẫng tiếc nuối.
Chiều hai mươi tám tết, tôi đang đứng trên ghế, đơm mấy
trái quưt ta quanh nải chuối cau và trái dưa hấu thật to trong đĩa trái cây
đặt trên bàn thờ ông bà, bỏ mấy viên Aspirine vào chiếc độc b́nh giữ cho
cành mai lâu tàn, bỗng nghe tiếng mấy đứa em cùng reo lên một lượt khi có
chiếc xe đ̣ dừng lại:
- Tám Hổ về tới!
Mọi người chạy ra đón Tám Hổ và phụ đem đồ vào nhà.
Phương, đứa con trai lớn của tôi hỏi:
- Túi này đựng ǵ mà nặng quá vậy chú Tám.
Tám Hổ cười đáp:
- Hai chục kư lô khô nai, nhậu mệt nghỉ!
Chú cho biết, mấy lúc gần đây, một tháng đôi lần, vào
những tuần trăng, sáng ra mở cửa thấy một con mễn, có khi heo rừng nặng cả
tạ, và mới đây là một con nai to bằng con bê c̣n nóng hổi nằm chết trước
nhà. Có dấu chân cọp in hằn rơ nét mà Tám Hổ không bao giờ lầm lẫn, đó là
dấu chân của Gina.
Gina đă trở về sống với rừng xanh, nhưng cứ đến tuần
trăng nó lại tha mễn, nai hoặc heo rừng đến trước sân nhà làm quà cho Tám
Hổ. Gina tuy là thú vật nhưng vẫn c̣n lưu luyến chút t́nh người, chứng tỏ nó
không quên Tám Hổ. C̣n Phụng, người vợ cũ đầu ấp tay gối ra đi biệt tăm, mặc
dù hai người đă có chung với nhau một đứa con trai. Phụng và Gina, ai
“người” hơn ai? Câu hỏi lẩn quẩn trong đầu đă bao lần Tám Hổ không sao t́m
được câu trả lời thích đáng, mỗi chiều bên ly bia sủi bọt, mơ màng ngó về
hướng b́a rừng rồi lại nh́n đứa con trai trông giống Phụng như đúc, Tám Hổ
ngồi yên lặng thở dài.
Sau đó gia đ́nh tôi bồng bế nhau sang Hoa Kỳ theo diện
H.O, một chương tŕnh được mệnh danh là nhân đạo.
Một lần nữa lịch sử cho chúng ta thấy rằng đạo đức được
lợi dụng làm tấm b́nh phong để che đậy – thật ra cũng chẳng đậy che được ǵ,
tội ác của một thế lực mạnh vào bậc nhất thế giới – phát măi người bạn đồng
minh, một dân tộc, một đất nước vào tay bọn người vô nhân đạo mà luôn mệnh
danh là lương tri của loài người(?).
Chúng ta tin có Thượng Đế, kẻ nào trồng chanh sẽ thu
hoạch được trái chua.
Thân nhân, bè bạn, anh em tiễn đưa gia đ́nh tôi ở phi
trường Tân Sơn Nhất thật đông. Qua khung cửa kính, lúc máy bay vừa cất cánh,
tôi chợt thấy Tám Hổ một tay vịn vai thằng Ân, tay kia đưa ngang mặt quẹt
nước mắt. H́nh ảnh Tám Hổ khóc, khiến tôi bồi hồi xúc động, theo tôi suốt
cuộc hành tŕnh bỏ xứ ra đi này.
Trăm cay ngh́n đắng gặp phải khi mới đến định cư xứ
người, c̣n ǵ khổ bằng tóc đă muối tiêu, tôi phải sắp xếp mọi thứ cho gia
đ́nh lại từ đầu. Qua thư từ liên lạc với thân nhân ở quê nhà, tôi biết Phụng
đă t́m lên vùng kinh tế mới, gặp Tám Hổ để bàn về thằng Ân, đứa con trai
chung của hai người. Phụng tỏ ra rất biết điều, nói năng từ tốn, không dám
đ̣i hỏi ǵ. Phụng chỉ mong Tám Hổ thương thằng Ân, nghĩ đến tương lai của
nó, cho thằng Ân theo Phụng sang Úc do sự bảo lănh của gia đ́nh Phụng. Phụng
cũng xin lỗi Tám Hổ, đă từ lâu dấu Tám Hổ âm thầm lo hồ sơ xuất ngoại cho
thằng Ân.
Sau gần một tuần suy nghĩ, tốn thật nhiều bia để trợ
lực, v́ t́nh thương thằng Ân vô bờ, Tám Hổ đồng ư cho thằng Ân sang Úc với
Phụng. Tương lai nó dù sao cũng sáng sủa hơn ở vùng kinh tế mới Định Quán
này, địa danh mà người đi qua chợt xác nhận vị trí bởi những ḥn đá cheo leo
xếp chồng lên nhau một cách hờ hững bên đường.
Ngày thằng Ân lên máy bay, Tám Hổ không đi tiễn, nằm
nhà ngủ vùi với cơn say và nước mắt. Phụng phải nắm tay lôi thằng Ân ra phi
đạo v́ nó nằng nặc đ̣i ở lại. Ân vừa bước đi vừa mếu máo:
- Mấy bác thấy ba con đâu không? Con thương ba con lắm!
Con muốn ở lại với ba con.
Tôi biết Tám Hổ đứt ruột phải xa thằng Ân. Sự ra đi của
thằng Aân là một tổn thất lớn nhất trong đời của Tám Hổ, c̣n hơn sự ra đi
của Phụng mười năm trước. Cách quê hương nửa ṿng trái đất, cuộc sống Mỹ đă
đưa gia đ́nh tôi vào quỹ đạo chóng mặt, riêng tôi không c̣n thời gian nhàn
hạ nữa. Hằng tháng tôi gọi điện thoại về Việt Nam thăm hỏi gia đ́nh, người
thân. Quê hương ai xa mà không nhớ, chính điều đó mà người Việt đă đóng góp
một số tiền rất lớn, lên hàng nhiều triệu trong trương mục của các hăng điện
thoại viễn liên.
Sang Mỹ được hai năm, buổi chiều đi làm về tôi nhận
được thư của Nhường – rất dầy, dán đến bốn mươi lăm ngàn đồng tem Việt Nam –
đứa em trai thứ bảy được tôi ủy quyền trông nom nhà cửa. Trong thư chúù chỉ
nói có nửa trang về thân nhân gia đ́nh b́nh yên, c̣n hơn mười trang nói về
Tám Hổ và Gina. Đọc thư tôi cười và nói thầm: “Chuyện Gina sang đến Mỹ rồi”.
Với số thịt rừng hàng tháng do Gina mang đến tặng trước
sân nhà mỗi độ trăng sáng. Tám Hổ ướp nước đá và mang về bán cho các quán
nhậu tận Sài G̣n, giá được tăng gấp đôi. Lấy tiền bán thịt rừng làm vốn bổ
đồ về quán tạp hóa, không vốn mà Tám Hổ được bốn lời! Để đền ơn, nh́n trăng
biết ngày Gina đến, Tám Hổ pha một thau sữa bột đậu nành đường cát trắng,
đặt giữa sân chỗ Gina thường bỏ con mồi. Tám Hổ thức chờ.
Trăng sáng trên đỉnh đầu, Gina xuất hiện kéo lết một
con nai, bước những bước nặng nề, mệt nhọc đi vào sân. Bỏ con mồi xuống,
Gina gục đầu sang thau sữa uống một cách ngon lành, tiếng Gina uống sữa như
nước chảy vào ống cống hẹp. Tám Hổ run run, xúc động bước ra sân và khẽ gọi:
- Gina!
Gina quay lại ngoắc đuôi, bước đến cọ đầu và tai vào
chân Tám Hổ một cách tŕu mến, quyến luyến. Tám Hổ ngồi xuống ôm và xoa đầu,
Gina liếm nhè nhẹ vào má Tám Hổ. Vài phút sau Gina bỏ đi, Tám Hổ gọi tên mấy
lần, Gina bước nhanh và không ngoái đầu lại.
Mỗi tháng trăng sáng, Tám Hổ nôn nóng gặp Gina – không
phải v́ con mồi – với trạng thái t́nh cảm nồng nàn như trông ngóng người
t́nh. Thế rồi một buổi chiều, trời vừa sụp tối, Tám Hổ đang cho thêm đường
vào thau sữa, một xe Jeep chở công an chạy chầm chậm ngang qua quán, Tám Hổ
nghĩ thầm: ”Chắc có người bị công an c̣ng v́ tội âm mưu vượt biên hay phản
động nào đây”.
Nửa đêm trăng sáng vằng vặc, Tám Hổ nằm ngủ trên vơng,
mơ màng ngoài mái hiên nhà bỗng nghe tiếng súng nổ đoàng!! đoàng!!
đoàng!!...nhiều loạt đạn nổ chát chúa, cộng với tiếng rống xé trời vang lên
từ phía b́a rừng. Tám Hổ choàng tỉnh chạy ra mé rào, trống ngực đập liên
hồi, lo lắng, không biết có điều ǵ bất trắc xảy ra cho Gina. Vài phút sau
chiếc xe Jeep chở công an vụt chạy qua trong cát bụi mịt mù, Tám Hổ nghe
tiếng người gắt gỏng trong xe:
- Dẹp hết! lo cấp cứu cho anh Tư.
Trời vừa rạng sáng, người xe đạp ôm đầu tiên chở khách
từ Định Quán vào, uống cà phê và cho Tám Hổ biết phó pḥng công an Tư Mưu và
ba đệ tử vào đây săn cọp. Tư Mưu bị cọp vồ, vết thương ở cổ họng và bọng đái
rất nặng đang chở vào thành phố cấp cứu. Họ săn được một con heo rừng và một
con cọp. Nghe đến đây Tám Hổ rụng rời! Gina đă chết rồi, Gina v́ mang heo
rừng về biếu Tám Hổ, do theo thói quen mà Gina phải chết.
Tám Hổ ra pḥng công an nh́n kỹ, quả thật xác Gina đang
nằm như ngủ, ngoài mái hiên pḥng chờ đợi. Nhờ người thương lượng, Tám Hổ
mua xác Gina với giá năm triệu đồng.
Đường dạo này đă ban bằng và mở rộng, Tám Hổ mua một
cái quan tài hàng chân nhang hạng nhất, bao nguyên chiếc xe Lam chở quan tài
và xác Gina về nhà. Cùng lúc ấy xe chở xác Tư Mưu về, chết v́ nát bấy bọng
đái, tắt thở dọc đường chưa kịp đến nhà thương.
Tư Mưu quê ở Hà Tĩnh, đi theo cách mạng lúc 14 tuổi, lư
lịch ba đời bần cố nông. Huân chương chiến công hạng ba. Lẽ ra Tư Mưu với
ḷng trung thành tuyệt đối, vừa hồng vừa chuyên, Đảng muốn cất nhắc lên làm
trưởng pḥng, ngặt một nỗi tŕnh độ văn hóa mới đến lớp hai. Người dân Định
Quán rất nể sợ uy quyền Tư Mưu, nhưng họ gọi với lối phát âm rất miền Nam.
Có lần trong một bữa nhậu, Tư Mưu cho rằng lối phát âm đó cực kỳ phản động.
Gọi tên tục anh Tư mà không có chữ “Ư” đàng sau! thay v́ tên anh Tư có nghĩa
là mưu trí đảm lược thành ra “miếng đất xéo của phụ nữ”. Anh Tư tức giận
cũng hơi vô lư, v́ đâu có người phụ nữ nào trên cơi đời này có tài sản gấp
bốn lần như anh Tư, một và chỉ một mà thôi.
Quan tài Tư Mưu quàn ở pḥng hội. H́nh anh Tư được
phóng lớn lúc c̣n ở bộ đội mang quân hàm Thượng Úy, bên hông mang K54 và hai
tay đang ôm cây đàn mandoline, được đặt trước đầu hàng bàn thờ. Phía trong
là hai bàn dài kê sát tường, đồ nhậu và bia sẵn sàng, để các đồng chí đến
thức đêm chia buồn, thương tiếc, vĩnh biệt anh Tư. Điện đánh đi trên ba ngày
nhưng không thấy gia đ́nh Tư Mưu từ Hà Tĩnh vào, hai bàn nhậu hồi hôm khám
phá ra rằng xác Tư Mưu đă có mùi. Đảng ủy họp khẩn và quyết định: “ Tư Mưu,
cán bộ lănh đạo vô kỷ luật, dùng người, xe, vũ khí đi săn bất hợp pháp, tử
nạn v́ t́m mồi nhậu chứ không phải công vụ, do đó đảng ủy quyết định Tư Mưu
không được an táng trong nghĩa trang liệt sĩ!”. Thật tội nghiệp cho Tư Mưu,
cả một đời theo cách mạng.
Sáng hôm sau, trong cơn mưa lất phất, một số tù h́nh sự
và vài ba đồng chí đă đưa Tư Mưu ra nằm ở g̣ ruộng, chung quanh ngập nước,
phía xa là nghĩa trang liệt sĩ.
Hồi c̣n sống, có lần chủ tiệm muốn lấy ḷng anh Từ đề
nghị may tặng cho anh Tư một bộ veston. Anh Tư nhận, nhưng thay v́ may bộ đồ
lớn hăy may cho anh Tư năm bộ Py-gia-ma, màu khác nhau. Đồ may xong anh Tư
để trong pḥng ngủ một bộ, c̣n bốn bộ anh Tư gửi ở bốn địa điểm khác nhau:
Chị Tư Thu Hồng biên số đề, chị Sáu Liễu bán quần áo may sẵn tối chứa bài
lấy xâu, cô Hai Thoa tiệm uốn, hớt tóc và đấm bóp, chị Bảy Tân bán cà phê và
thuốc Tây lậu. Một tuần, trừ số đêm phải trực, anh Tư đổi địa điểm ngủ để
bảo mật đồng thời đổi màu áo luôn. Xác anh Tư nằm lạnh lẽo gần một tuần mà
chẳng thấy bà nào hiện c̣n giữ py-gia-ma của anh Tư đến thắp hương nhang cả.
Rơ chán ngấy sự đời, lúc sanh thời anh Tư có đối xử tệ bạc ǵ với bốn bà cho
cam (?).
Nửa tháng sau con cả của anh Tư mới vào, ra mộ thắp
hương cho bố, sáng hôm sau vội vă ra về ngay với tài sản của anh Tư gồm cái
va li bằng nhôm phế liệu của máy bay, một ba-lô con cóc, tay ôm khuôn h́nh
anh Tư ôm đàn măng-đô-lin và khung h́nh huân chương chiến công hạng ba. Sau
này có người nói lại con trai anh Tư chỉ nhận được vài trăm ngàn đồng đủ mua
vé tàu và tiền ăn đi đường. Số tiền năm triệu bán xác Gina cho Tám Hổ lo mua
quan tài, ṿng hoa, nhang đèn, rượu cùng mồi nhậu suốt mấy đêm để các đồng
chí “tưởng nhớ” anh Tư đă đứt mẹ nó hết rồi...
Riêng phần Tám Hổ lo cho đám tang Gina thật chu đáo.
Chờ xác Gina về tới, anh em xe đạp ôm, già trẻ, lớn bé hiếu kỳ đến chật nhà.
Tám Hổ cho che tấm bạt lớn kín gần nửa sân, quan tài đặt chính giữa, lót một
tấm mền bông mới nguyên xé từ trong bọc, hai mép phủ bên ngoài. Gina được
lau khô máu, đặt quan tài trong tư thế nằm nghiêng, êm đềm như ngủ. Vợ chồng
Tám Hổ tận dụng tất cả bàn ghế trong nhà, một số hàng xóm tự động mang tới.
Cà phê, nước trà, bánh ngọt, thuốc lá khách dùng tự nhiên.
Mỗi người nói một câu, quang cảnh như buổi chợ đêm. Có
người đàn bà lớn tiếng nguyền rủa lũ người tàn ác đă thảm sát Gina. Trời vừa
sáng, có người đàn bà ăn mặc diêm dúa, cỡi chiếc Dream màu hạt nhăn từ Định
Quán vào viếng Gina và chia buồn cùng vợ chồng Tám Hổ, người đàn bà ấy là Tư
Hồng, thầu số đề lớn nhất Định Quán. Dan díu với Tư Mưu như thế, Tư Mưu
chết, Tư Hồng tỉnh bơ, tại sao lại đi viếng Gina, một con cọp cái. Tám Hổ
cảm động cám ơn Tư Hồng rối rít. Tư Hồng vừa ra về, t́nh cờ Tám Hổ nghe mấy
anh xe đạp ôm đă vô mấy xị tiết lộ cho biết vợ Tám Hổ là một trong những tay
đánh số đề có hạng ở Định Quán. Tám Hổ nghe đắng ở cổ họng và tức muốn ói
máu, bán buôn rất được, mỗi lần đi bổ hàng đều bị thiếu tiền, một số thất
thoát không kiểm chứng được.
Tám Hổ chôn Gina ngay ngoài sân nơi đêm đêm trăng sáng,
Gina mang thú rừng về tặng Tám Hổ. Chôn cất Gina xong, chờ cho mọi người về
hết, Tám Hổ hỏi tội vợ về việc chơi số đề. Một cuộc đập lộn quyết liệt xảy
ra, có người đến can măi mới lôi hai vợ chồng ra được. Tám Hổ bị chảy máu
mũi và bầm tím một bên mắt, nghe đâu vợ Tám Hổ có vơ tiều. Rơ ràng số Tám Hổ
là số con rệp. Một tuần sau, Tám Hổ rước thợ, mua cát đá, xi măng làm mộ cho
Gina. Xây mộ xong, vật liệu c̣n thừa, Tám Hổ cho tráng rộng chân nền ra gần
hai thước, tất cả vuông mộ và nền được tô đá mài màu xanh xám, mát lạnh. Tám
Hổ đem h́nh Gina ở tư thế hai chân trước chống thẳng, hai chân sau quỳ bằng,
đôi mắt sáng quắc nh́n thẳng về thành phố bọc kính, tấm mộ bia to bằng tấm
lịch treo tường, phía dưới đục hàng chữ đen bóng.
Phần mộ: Gina, sanh năm 1989, tử nạn ngày
6/5/1998. Hưởng thọ 9 tuổi.
Tấm mộ bia được gắn vào mộ Gina đẹp, uy nghi và có thần
lạ thường. Hai hôm sau Tám Hổ bị công an mời ra huyện làm việc. Tám Hổ bị
công an bắt quỳ gối xuống đất buộc ba tội: C̣n mơ tưởng đế quốc dùng tên Mỹ
đặt cho cọp. Phản động v́ mộ anh hùng liệt sĩ c̣n bằng đất, trong khi đó,
Tám Hổ xây mộ cọp cái bằng vật liệu cao cấp. Xây mộ chiếm đất của nhà nước
không xin phép.
Tám Hổ hiền như bụt, nhưng quá mức chịu đựng. Tám Hổ
không sợ ai hết. Tám Hổ lớn giọng, mộ của anh hùng liệt sĩ là của nhà nước,
lo không nghiêm chỉnh là lỗi của nhà nước. Cách mạng thành công, đăi ngộ
những gia đ́nh có công với cách mạng. Tám Hổ đăi ngộ Gina v́ Gina giúp đỡ
gia đ́nh Tám Hổ làm ăn là lẽ tất nhiên! Tám Hổ bác bỏ mọi luận điệu kết tội
của công an bằng thái độ hằn học và căm phẫn. Công an huyện nhốt Tám Hổ một
tuần không cho thăm nuôi về tội ngoan cố chống đối cách mạng.
Thả ra, Tám Hổ mượn tiền người quen ở phố chợ, đi thẳng
về ủy ban nhân dân thành phố tŕnh bày mọi việc, Tám Hổ c̣n dọa mang hết gia
đ́nh về sống ở vỉa hè v́ công an làm khó dễ, bỏ tù, không dám sống ở vùng
kinh tế mới nữa. Điều làm cho ủy ban nhân dân thành phố điên đầu là độc lập
tự do hạnh phúc đâu không thấy, khách ngoại quốc vào thành phố thấy toàn dân
ăn xin và ngủ ở vỉa hè nhiều vô kể. Một văn thư khiển trách gởi công an
huyện Định Quán, một văn thư do phó bí thư thành ủy trao tận tay Tám Hổ, xác
nhận chủ quyền tài sản, mồ mả thuộc phạm vi đất khai hoang, Tám Hổ có quyền
tùy nghi.
Tám Hổ mang văn thư chiến thắng trở về, toàn thể anh em
xe đạp hùn tiền đăi Tám Hổ một chầu nhậu bỏ trời đất, bỏ vợ luôn. Giờ đây
dưới mắt mọi người, Tám Hổ là người hùng vùng kinh tế mới. Nền mộ của Gina
bây giờ là tụ điểm của xe đạp ôm, cờ tướng, bài cào con, trẻ nít quây quần
đánh đáo, bắn bi. Mấy tay mê số đề thắp nhang van vái Gina phù hộ. Vợ Tám Hổ
nh́n một cách thèm thuồng nhưng không dám thắp nhang. Không biết nhờ Gina
phù hộ hay mấy tay mê số đề tới số, đa số những người van vái đều trúng số
đề, không nhiều th́ ít. Tiếng đồn vang xa, mộ Gina suốt ngày khói hương nghi
ngút.
Thế rồi, một buổi sáng trên chiếc xe lam bốn người phụ
nữ Tàu ăn mặc sang trọng, mang theo mấy mâm bánh, trà, trái cây và mộït con
heo quay to. Theo lời tiết lộ của bác tài xe lam, đây là gia đ́nh A Phóng,
dân kinh tế mới vượt biên đến đảo Paulo Bidong an toàn, đem phẩm vật lên trả
lễ v́ trước khi vượt biên, A Phóng có đến khấn trước mộ Gina. Suốt đêm đó và
cả ngày hôm sau, Tám Hổ và đám xe ôm say mệt rồi ngủ, thức dậy nhậu tiếp mới
hết nửa con heo quay, phần c̣n lại chia cho hàng xóm.
Khi con heo quay thứ tư được cúng, Tám Hổ bị công an
mời tŕnh diện. Trước khi đi Tám Hổ không quên lận theo cái văn thư của
thành ủy mộc đỏ chói. Công an tiếp Tám Hổ rất lịch sự, nước trà, thuốc thơm.
Không giữ Tám Hổ, không quy tội ǵ, chỉ mong Tám Hổ hợp tác hạn chế số người
đến khấn vái.
Tám Hổ đồng ư và hứa thi hành nghiêm túc, bước ra khỏi
văn pḥng công an huyện, Tám Hổ phun một băi nước bọt lên trời nói bâng quơ:
- C̣n khuya!!!
Thằng Ân từ bên Úc gửi thư về thăm Tám Hổ. Nó nói
thương ba lắm, trong thư nó bảo Tám Hổ ráng giữ ǵn sức khỏe, bốn năm nữa
đúng mười tám tuổi, thằng Ân sẽ bảo lănh Tám Hổ qua Úc sống với nó. Vợ Tám
Hổ vẫn lén lút, ḅn nhét đánh số đề. Tám Hổ buồn đời, hận vợ, nhớ thằng Ân
nên say xỉn hoài, gia đ́nh bắt đầu xuống dốc.
Có những đêm gây lộn với vợ, uống say Tám Hổ mang mền
gối ra mộ Gina nằm ngủ, rượu vào cơ thể nóng bừng, nằm trên đá mài mát lạnh,
Tám Hổ phê một giấc tới sáng. Khách lục tục vào uống cà phê, mặt trời lên
cao gần một sào, Tám Hổ mới thức dậy mang mền gối lề mề vào nhà. Khách quen
hỏi:
- Hồi hôm đă dữ hả Tám Hổ?
Tám Hổ trả lời giọng c̣n ngái ngủ:
- Cũng đủ lăng quên đời thôi.
Cuối năm, mấy đứa em tôi và cả vợ Tám Hổ gửi thiệp chúc
Tết kèm theo thư dài sang Mỹ, báo rơ cho tôi biết t́nh trạng bê bối của Tám
Hổ, nhờ tôi biên thư về “giũa” Tám Hổ v́ chú chỉ sợ và nghe lời mỗi một ḿnh
tôi mà thôi. Ừ! Tôi phải biên thư về rầy Tám Hổ bỏ rượu v́ nó là độc dược
tàn phá, hủy hoại tuổi thọ con người. Nói th́ nói vậy, tôi thương số phận
“con rệp” hẩm hiu của Tám Hổ lắm. Chiều ba mươi, bữa cơm rước ông bà được
nấu nướng vội vă, hớp một ngụm bia, phần c̣n lại sau khi rót cúng, tự dưng
tôi muốn nói một lời đủ chỉ mỗi một ḿnh Tám Hổ nghe thôi:
- Anh thương và thông cảm hoàn cảnh của chú lắm! Xin
chú đừng mượn rượu để hủy hoại đời ḿnh. Nhưng nếu thật t́nh như lời chú
nói: “Uống rượu để lăng quên được chuyện đời!”, th́ Tám Hổ ơi! Anh đây cũng
xin được làm người nát rượu.
Hồ văn Ẩn
|