Nguyên tác của
Henri Navarre
Trọng Đạt dịch
Bài Một
LND
- Bài này trích dịch trong cuốn Agonie de l’Indochine của Đại
tướng Navarre, Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ đầu tháng
5-1953 cho tới đầu tháng 6-1954. Ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện
Biên Phủ thất thủ 7-5-1954. Năm 1956 ông viết Agonie de l’Indochine,
Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang mục đích để bào chữa cho ông và
quân đội Pháp về nguyên do bại trận tại Điện Biên Phủ và qui trách nhiệm
cho chính phủ Pháp đă đưa tới sự hấp hối và sụp đổ cuộc chiến Đông Dương
lần thứ nhất 1946-1954.
Sư
thật người dân Pháp, chính phủ đă quá chán ngán cuộc chiến này, tốn kém
về tài chính, nhân mạng mà không biết bao giờ chấm dứt, họ muốn bỏ Đông
Dương v́ không c̣n quyền lợi. Năm 1945 Pháp vào Việt Nam để chiếm lại
thuộc địa nhưng nay mục đích ban đầu không c̣n, chế độ thuộc địa cáo
chung, các nước Anh, Ḥa Lan.. đă trao trả độc lập cho các thuộc địa
của họ. Theo Navarre kể lại trong các chương trước từ giữa năm 1952 trở
đi, nhất là từ 1953 trong khi Trung Cộng ngày càng gia tăng quân viện
cũng như giúp Việt Minh thành lập thêm nhiều đơn vị chính qui th́ chính
phủ Pháp không tăng cường thêm cho chiến trường Đông dương.
Mặc
dù năm 1953, 1954 viện trợ Mỹ cho Pháp gia tăng nhiều, riêng 1954 Mỹ đă
gánh 78% chiến phí (The Pentagon Papers Volum 1, Chapter 2) nhưng quân
Pháp tại Đông Dương ngày càng suy yếu so với Việt Minh cả về chủ lực
quân lẫn hỏa lực. Trang 42 tác giả cho biết Việt Minh có một lực lượng
chính qui tương đương 9 sư đoàn (6 sư đoàn có danh hiệu, một không tên
và nhiều trung đoàn độc lập), trong khi Pháp chỉ tương đương 3 sư đoàn
(7 nhóm lưu động, 8 tiểu đoàn nhẩy dù, trang 43).. Tóm lại trận Điên
Biên Phủ là hậu quả khó tránh của t́nh trạng ngày càng suy yếu của Pháp
so với Việt Minh, cái mà ông goị là t́nh trạng hấp hối của Đông Dương
Việt
Minh thắng Điện Biên Phủ nhờ quyết tâm hy sinh nhiều nhân mạng và nhận
được viện trợ quân sự tăng vọt của Trung Cộng khi bắt đầu trận đánh.
Trong suốt trận đánh trên 50 ngày, Việt Minh đă pháo xuống khu ḷng chảo
vào khoảng 200 ngàn quả đạn đại bác và súng cối lớn. Giữa thập niên 80
tôi có được đọc một cuốn sách dài khoảng 100 trang do một đại học Mỹ
xuất bản năm 1974 nói về mười trận đánh lớn nhất thế giới, (lâu quá
không nhớ rơ tên, The great military battles?). Sách gồm mười bài, mỗi
bài do một Giáo sư hoặc một nhà nghiên cứu viết, Điện Biên Phủ cũng được
xếp trong số mười trận đó và xếp hàng thứ mười, họ xếp theo thứ tự thời
gian, trước đó là trận Bá Linh và Stalinggrad.
Trong
phần mở đầu, nhà xuất bản cho biết: những trận đánh lớn nhất thế giới ở
đây không hẳn là lớn về số lượng quân sự, nhân sự mà v́ nó thay đổi một
khúc quành lịch sử. Thí dụ trận Stalingrard 1942, là khởi điểm cho sự
bại trận của Đức Quốc Xă, trận thủy chiến Midway 1942, Nhật thảm bại
thua luôn cuộc chiến Thái B́nh Dương. Trận Điện Biên Phủ 1954 đă kết
thúc chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương và lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc
chiến tranh dài như vô tận.
Mặc
dù Điện Biên Phủ chỉ là một trận nhỏ về quân sự, tổng số quân hai gần 70
ngàn người, tương đương với 6 hoặc 7 sư đoàn, so với Stalingrard tổng số
cả hai phía gần một triệu rưỡi người, ước lượng từ 130 tới 150 sư đoàn
nhưng Điện Biện Phủ cũng được coi như ngang hàng với Stalingrard v́ ư
nghĩa lịch sử của nó. Về điểm này tác giả Bernard B. Fall trong cuốn
sách nổi tiếng Hell In A Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu
cũng nói vậy (Preface, trang VII).
Tôi
đă đọc phần nói về Điện Biên Phủ trong Agonie de l’Indochine vào năm
1972, t́nh cờ nay lại có được cuốn sách này do một người bạn du lịch
châu Âu về gửi tặng, nó là môt tài liệu quí và hiếm, xin dịch lại để phổ
biến cùng quí vị.
Tôi
xin dịch nguyên văn Chapitre VII, La Bataille De Dien Bien Phu từ trang
188 cho tới trang 258 trong Agonie de l’Indochine của Henri Navarre, in
năm 1956, nhà xuất bản Librairie Plon, Paris. V́ bài dài 70 trang bằng
gần 1/5 cuốn sách nên tôi bỏ bớt một số chú thích rườm rà. Hành văn của
Tướng Navarre nhiều chỗ cô đọng khó hiểu nên đôi khi tôi có chú thích
thêm cho sáng sủa.
TĐ
Chương VII
Trận Điện Biên Phủ
Tại Sao Có Điện Biên Phủ?
Một câu hỏi đă được chúng tôi đặt ra nhiều lần: ta sẽ làm ǵ tại cái nơi
hẻo lánh miền Thượng du Bắc Việt này.
Để
hiểu lư do tại sao tôi cho chiếm Điện Biên Phủ (ĐBP) và chấp nhận trận
đánh, ta cần trở lại t́nh h́nh cuối tháng 10-1953 khi Việt Minh bỏ kế
hoạch tấn công vùng châu thổ Bắc Việt (Delta) hướng về Thượng du (Bắc
Việt) và Thượng Lào. Những ngày cuối tháng 10, chúng tôi được biết lính
địa phương Thái bị hai tiểu đoàn chính qui tấn công và Sư đoàn 316 bỏ
vùng châu thổ tiến về Lai Châu.
Những
ngày đầu tháng 11 có nhiều dấu hiệu cho thấy những đơn vị quan trọng
không được xác định rơ của các Sư đoàn 304, 308, 312 có lẽ tiến về
Thượng Du theo sau Sư đoàn 316. Dần dần do những nguồn tin chính xác
chúng tôi biết kế hoạch của Việt Minh (VM). Tại Tây Bắc Đông Dương họ
nhắm tiêu diệt quân địa phương Thái , thanh toán đồn lũy Pháp tại Lai
Châu và mở rộng ảnh hưởng VM tại Thượng Lào (Phong Saly - Nam Bac –
Luang Prabang) để dễ kiểm soát toàn vùng biên giới Hoa – Lào và để tiếp
cận với Thái Lan. Căn cứ dự định cho chiến dịch của họ là ĐBP.
Trước
t́nh thế ấy, rơ ràng là vào cuối tuần đầu tháng 11, ta cần phải quyết
định ngay nếu không địch sẽ ra tay trước. Cần phải bảo vệ Lào hay không?
Nếu cần phải làm sao?
* * *
Việc
bảo vệ Lào luôn luôn là trách nhiệm thường trực của Tư lệnh Đông Dương,
nhưng trong chiến dịch 1952-1953 hầu như toàn bộ quân trừ bị của chúng
tôi đă được xử dụng để bảo đảm kết quả và đă gây nên những khó khăn vô
cùng cho hiện t́nh quân đội Pháp. Tôi đă đệ tŕnh lên Ủy ban Quốc pḥng
xin bớt trách nhiệm cho Tư lệnh từ tháng 7-1953 nhưng không thấy quyết
định ǵ cả, nhiệm vụ không đổi mới, vẫn y như cũ.
Nó vẫn
y như thế và c̣n có tính bó buộc, vả lại ngày 28-10 một hiệp ước mới
được kư kết tại Paris với chính phủ Lào, do văn kiện này nước Lào vào
Liên hiệp Pháp, Pháp có bổn phận phải bảo vệ Lào. Hiệp ước này về mặt
ngoại giao được coi như khuôn mẫu cho Việt Nam và Miên sau này, nếu
không tôn trọng mười lăm ngày sau khi kư sẽ làm hủy hoại tới chính sách
cùa chúng ta.
Tôi hỏi
ư kiến ông Tổng ủy viên (1) đầu tháng 11 (1953), ông nói việc bảo vệ Lào
là tất nhiên. Ông Marc Jacquet, Bộ trưởng Các nước liên kết (2) tới Đông
Dương vào giữa tháng 11cũng nói thế, ông c̣n cho biết nếu để VM chiếm
Luang Prabang và tiến tới sông Cửu Long sẽ gây chấn động dư luận Pháp và
cuộc chiến Đông dương sẽ không tiếp tục được.
Chúng
ta đă hiểu nguyên nhân nhưng làm cách nào để bảo vệ? Phải che chở trực
tiếp nó hay hoặc bảo vệ gián tiếp bằng những lực lượng từ châu thổ (Bắc
việt) mục đích buộc Quân đoàn VM (3) hoặc một phần lực lượng của họ phải
đương đầu?
Câu hỏi
này phụ thuộc vào chiến lược chung của chiến trường lớn Đông Dương mà
tôi đă nghiên cứu ở trên kia (Chương VI). V́ thiếu phương tiện (4), dù
muôn hay không tôi phải quyết định bảo vệ trực tiếp Lào.
Bảo vệ ở
đâu cho chắc?
Từ xứ
Thái, sẽ là nơi Việt Minh tập trung, đường vào Lào gồm hai chùm: cả hai
đều tới Cửu Long thượng. Đường từ đông qua Sầm Nứa và cao nguyên Traninh
tới Paksane, Luang Prabang và Vạn Tượng. Nó được cai quản bởi một đồn
lũy tại Cánh đồng Chum do Tướng Salan lập lên từ năm trước. Đi từ hướng
Tây là tốt nhất, bắt đầu từ Tuần giao, ở chỗ này qua Điện Biên Phủ và và
thung lũng có đường sông Nam Ou dẫn tới Luang Prabang rồi tới Vạn Tượng.
Chúng
tôi có tin chắc chắn lực lượng lớn của Việt Minh sẽ mượn đường này. Nếu
tính toán ra th́ sẽ biết có lẽ Quân đoàn VM ờ ĐBP đầu tháng 12 (1953) và
tới Luang Prabang ngày 1-1-1954. Những tuần lễ đầu năm sẽ thấy họ tới
Vạn tượng ít nhất cũng bằng những đơn vị khinh binh và họ đi dọc theo
sông Cứu Long biên giới Thái Lan.
Việc
bảo vệ Lào không thể dùng vận động chiến (5). Tôi đă nói tới trong một
chương trước v́ những lư do: địa thế, quân Pháp không thích hợp. V́ thế
ta phải cần một phương pháp khác. Cái mà truyền thống ta gọi là “chiến
tranh vị trí” (6), cũng gọi bằng một từ tối tân đó là hệ thống những
“con nhím” hay những “đồn lũy” (7), một giải pháp xoàng nhưng qua thử
thách cho thấy chỉ có nó là xài được. Nó không ngăn được các đơn vị
khinh binh của địch di chuyển nhanh, nhưng nó bảo đảm cho ta những điểm
cơ bản bằng ngăn chận xâm chiếm của địch. Chính phương pháp này Tướng
Salan đă cần tới năm trước.
Ở đâu
chúng ta có thể lập những “vị trí” những “con nhím”, những “đồn lũy”-
người muốn gọi nó theo cách nào cũng được?
Chỉ
bảo vệ Lào ở ở Luang Prabang hay ở Vạn Tượng là những giải pháp không
đủ chống lại những thử thách sơ đẳng. Về phương diện chính trị cũng như
bảo vệ Pháp tại Paris và tại Orléans. Thực vậy Luang Prabang có tầm
chính trị quan trọng, Vạn Tượng chỉ là một thủ đô hành chánh không có ǵ.
Chiến đấu cho Luang Prabang có lợi rất lớn. Chiến đấu cho Vạn Tượng
chẳng có lợi ǵ. Tốt hơn hết là cho di tản toàn bộ Thượng Lào.
Về mặt
quân sự cả hai thủ đô này đều khó pḥng thủ cả về lục quân cũng như
không quân. Luang Prabang là một nơi hẻo lánh bị bao bọc tứ bề. Máy bay
tới đây gặp trở ngại quanh năm. Vạn Tượng có thể bảo vệ bằng bộ binh dễ
hơn nhưng với điều kiện phải khai quang rừng. Lại nữa những phi trường
của hai thủ đô cách xa thành phố cần phải mất nhiều quân bảo vệ . Sau
cùng nó cách quá xa phi trường châu thổ Bắc Việt không thể xử dụng được.
Cho dù
ngay cả chúng ta xử dụng những phương tiện lớn (8) để bảo vệ Luang
Prabang và Vạn Tượng để địch từ bỏ ư định đánh chiếm, họ sẽ không đánh
thẳng mục tiêu mà đồn lính của ta tại đó sẽ bị bao vây ngay. Chúng ta sẽ
không ngăn được VM chiếm những vùng xung quanh và chứng tỏ sự hiện diện
của họ tại biên giới Thái Lan, đó là mục tiêu chính trị của họ.
Đối
với mục tiêu này, địch nếu không bị buộc phải đánh vẫn có thể tiến tới
mà không cần phải huy động cả Quân đoàn tác chiến. Họ c̣n một phần của
lực lượng đáng kể ở t́nh trạng sẵn sàng, hoặc để tác chiến tại châu thổ
Bắc Việt, hoặc để tăng cường cho miền trung Đông dương. Mặt trận 1954
cho thấy chắc chắn sẽ mất Thượng Lào hoặc một trận lớn tại châu thổ BV
với ưu thế lực lượng rất mạnh về phía địch sẽ khiến Pháp thiệt hại nặng
(9), hoặc VM sẽ tiến mạnh về phía Nam qua Trung Lào.
Để ngăn
chận địch vừa có thể tới sông Cửu Long và vừa có những lực lượng gây
nguy hại cho chúng, tôi chỉ có một giải pháp: cản đường hành tŕnh họ sẽ
đi qua bằng một đồn lũy, được thiết lập sao cho VM bị bó buộc hoặc phải
đi ṿng để che dấu những lực lượng rất lớn hoặc phải tấn công đồn trước
khi tiếp tục đi qua.
Lập đồn
lũy ở đâu?
Lai
châu, thủ phủ chính trị của xứ Thái và là nơi duy nhất Pháp có phi
trường tại miền Thượng Du rất xa đường đi của địch không ngăn chận được
họ. Vả lại đứng trước áp lực mạnh, vị trí sẽ khó bảo vệ. Phi trường có
đồn lũy bao quanh nắm trong một thung lũng hẹp và sâu. Ngay cả khi thời
tiết tốt, máy bay đến đó cũng phải nhào lộn. Tại đây thường th́ thời
tiết xấu.
Chỉ có
một địa điểm có thể lập phi trường được nằm phía nam Lai Châu 90km, đó
là Điện Biên Phủ. Giá trị chiến lược của vị trí tại ĐBP đă được biết từ
lâu lắm rồi. Ngày xưa Quân phương Bắc xâm lăng từ đây đổ xuống Thượng
sông Hồng. Chúng tôi luôn luôn có một đồn tại đây, mà năm ngoái phải rút
v́ bị VM tấn công.
Trước
khi ra đi (10), tướng Salan đă cổ vơ cho việc chiếm lại ĐBP, ngày
25-5-1953, ông viết trong một bài nghiên cứu về việc bảo vệ Thượng Lào
“Nay cần hoàn tất chủ lực quân tái lập căn cứ pḥng thủ ĐBP. Từ đầu
tháng giêng 1953 tôi đă khuyến cáo việc tái chiếm nơi đây, tôi thấy việc
chiếm đóng địa phương này rất cần thiết cho an ninh Luang Prabang. Những
biến cố trong khoảng tháng 4 tháng 5 (1953) vừa qua cho thấy sự cấp bách
của chiến dịch này mà chỉ v́ thiếu phương tiện vận chuyển hàng không đă
ngăn cản sự thực hiện trước các cuộc tấn công của VM mới đây.
Các nhà
cầm quyền Ai Lao biết rơ đất nước họ, cho là khi ĐBP không được chiếm
lại, đường đi Luang Prabang bỏ ngỏ v́ giữa ĐBP và thủ đô không có vị trí
pḥng thủ nào. Sau cùng chúng tôi biết VM cũng đánh giá cao vị trí của
ĐBP (11). Sự quan trọng của ĐBP không thể chối căi được cũng như khi
cuộc chiến của chúng tôi mở rộng. Nó là nơi hội tụ của các chặng đường
nối những vùng biên giới Lào, Thái Lan, Miến điện, Tầu. Vị trí này rất
khó đến bằng đường ṃn trên đồi núi. Cánh đồng ĐBP đông dân, trù phú
nhất miền Thượng du. Sản lượng lúa gạo tại đây rất thừa thăi có khả năng
nuôi sống từ 20,000 tới 25,000 người. Phi trường có thể mở rộng rất
nhiều, có khả năng gấp hai gấp ba lần.
Tuy
nhiên ĐBP, trong những trường hợp mà chúng tôi thấy, có một trở ngại lớn
về hàng không, nó cách xa phi trường tại châu thổ BV, nhưng phải chấp
nhận khó khăn này không có cách nào khác.
Trong
bất cứ trường hợp nào, bảo vệ ĐBP bằng không quân sẽ hơn là đánh địch
tại Luang Prabang và Vạn Tượng. Vả lại đường xa gây trở ngại cho ta về
không quân nó cũng gây trở ngại cho VM về tiếp liệu. ĐBP cách Châu thổ
200 km, cách biên giới Tầu 300 km, không có đường từ biên giới tới đó,
hoặc nếu có cũng bị phá hỏng. V́ thế nếu đánh ĐBP, Việt Minh phải dùng
dân công tiêp tế, khả năng giới hạn thôi. Trong môt bài nghiên cứu tháng
5-1953 về các chiến dịch miền Thượng du, Tướng Salan nêu ư kiến VM không
thể dùng nhiều vũ khí nặng v́ khó khăn về vận chuyển.Thực ra viện trợ
tăng cường ồ ạt của Trung Cộng cho thấy những dự đoán trên sai.
Về
phương diện chiến thuật sự pḥng thủ ĐBP cũng tương tự như tất cả những
đồn lũy trong vùng đồi núi bao quanh một phi trường.Vị trí sẽ là chỗ
trũng, không thể làm khác hơn v́ người ta không thể lập phi trường trên
đỉnh núi.
Tuy nhiên ĐBP là một vùng rộng nhất của Thượng Du, một cánh đồng dài 12
km rộng 9 km, bằng phẳng rất thuận lợi cho việc xử dụng thiết giáp.
Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy
quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch . Những khẩu pháo này
chỉ có thể đặt trên sườn đồi núi hướng về phía trong ḷng chảo. Pḥng
không địch cũng muốn chế ngự không gian phía trên phi trường,. Theo ư
kiến pháo thủ ta địch sẽ không làm được, các khẩu pháo sẽ bị các đài
quan sát trong ḷng chảo phát hiện khi họ đặt súng hay khi bắn. Chúng sẽ
bị “bịt mơm” do phản pháo của ta và do không quân oanh tạc. Những điều
kiện mà VM đă xử dụng được pháo binh đă bác bỏ những luận cứ rất lư
thuyết như trên, tôi sẽ bàn sau.
Nói
chung vị trí của ĐBP so với tất cả những bất tiện các đồn lũy miền
Thượng du, nói một cách dè dặt nó thỏa măn yêu cầu. Nó tốt hơn cả so với
Nasan, Lai châu, Luang Prabang, nó giá trị ngang với Cánh đồng Chum.
Đó là
những lư do ta phải chiếm ĐBP và chấp nhận giao tranh, giải pháp tầm
thường nhưng chấp nhận được để chống lại địch, nó hợp lư để nghĩ tới cái
ta sắp làm. Nhưng kế đó ta không đoán trước địch tăng sức mạnh nhanh
chóng. Nói chung ta không biết ǵ hơn thế
* * *
Quyết
định đánh ĐBP đă tạo lên, sau khi đồn lũy sụp đổ, nhiều phê phán, đa số
không đúng sự thật. Có người nói việc chiếm ĐBP do Chính phủ bắt buộc
tôi. Không đúng thế. Chính phủ đă sai lầm khi quên- không xác định rơ
nhiệm vụ của tôi và không cung cấp cho tôi những phương tiện để chiên
thắng – nhưng trách nhiệm của họ chỉ có thế. Họ không can thiệp vào tác
chiến. Sau ngày đồn lũy sụp dổ, trả lời pḥng vấn một kư giả trong cuộc
họp báo, tôi nhận trách nhiệm hoàn toàn về kế hoạch, quyết định tác
chiến trong trận ĐBP.
Có sự
xác nhận trái với điều khẳng định trên cho rằng quyết định đánh ĐBP trái
với ư kiến của của một số vị cấp bộ trưởng trong Chính phủ, và nhất là
các vị chỉ huy quân sự, trong đó có một số thuộc cấp của tôi. Tất cả
những chuyện này cũng đều sai.
Trước
khi t́nh h́nh mặt trận bắt đầu xấu, Chính phủ đă không bầy tỏ ư kiến dè
dặt nào. Vả lại, tôi sẽ nói sau, họ c̣n trách tôi bi quan khi tôi tỏ ư
lo sợ. Không hề có một cấp chỉ huy quân sự nào có lập trường, dưới bất
cứ h́nh thức nào chống lại kế hoạch quân sự tại ĐBP. Bản kế hoạch này
cũng đă được sự chấp thuận của Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng Bộ quốc
pḥng và Chủ tịch ủy ban các TTM. Không hề có thuộc cấp nào của tôi
trong Lục quân, Không quân- ít ra những người trực tiếp liên quan- phản
đối.
Nhưng
khi t́nh h́nh mặt trận xấu, nhất là khi đồn lũy thất thủ th́ nghe thấy
trong hàng giới chức cao cấp quân sự và nhất là giới chính trị một số
câu như “Tôi đă nói trước rồi mà”
Các
thuộc cấp của tôi, trái lại tỏ ra hoàn toàn trung thành với tôi và tránh
làm mất đoàn kết với tôi. Chỉ có Tướng Cogny tạo môt huyền thoại, sáng
tác nhiều thứ, cho rằng ông ta bất đồng ư kiến với tôi về chiến lược đă
đưa tới trận ĐBP. Ông soạn ra một tường tŕnh, về lúc cuối trận mà những
luận cứ sai dựa vào những ṛ rỉ cơ hội đă được phổ biến rộng răi trên
báo chí và diễn đàn nghị viện. Tôi đă nói và sẽ nói sau về vai tṛ của
ông ta trong thiết lập và thi hành kế hoạch ĐBP đủ để chứng minh một chủ
đề mà chỉ có mục đích giải thoát khỏi cái mà ông cho là trách nhiệm của
ḿnh.
Khi làm
thế, Tướng Cogny đă vi phạm một cách vô ích vào truyền thống danh dự của
quân đội bởi v́, nói về vấn đề quyết định ở cấp bậc của tôi, trách nhiệm
của ông ta đă được định rơ chỉ cần một việc là tôi đă giữ quyền quyết
định, cho dù ông gợi ư cho tôi nhiều.
Sau
cùng ông nói là ĐBP được làm ra để “giết Việt Minh”. Như tôi đă nói ở
trên về những lư do đưa tới quyết định của tôi và tôi được miễn phải bác
bỏ lối giải thích đơn giản này, nhưng mà – nếu nó có thật – tôi chẳng có
ǵ phải xấu hổ đáng tiếc ǵ cả về phương diện nhân bản, “giết kẻ địch”
là chủ trương chính đáng của tất cả các tư lệnh chiến trường. Đó cũng là
nhiệm vụ chính mà Tướng Giáp giao cho quân đội của ông.
Để bảo
vệ Lào, tôi có cách nào khác hơn là mở trận chiến ĐBP?
Chiến
lược không phải là một khoa học chính xác, những vấn đề nó bao hàm có
nhiều giải pháp mà cấp chỉ huy phải lựa chọn. Tuy nhiên nhiều lúc – nhất
là trong những trường hợp khó – mà một giải pháp dù là xoàng, nó áp đặt
tuyệt đối v́ chỉ có nó cho phép, với những phương tiện mà người ta cho
để hoàn thành nhiệm vụ.
Đó là
trường hợp của tôi. Chiếm ĐBP và và chấp nhận trận đánh mà tôi coi như
giải pháp duy nhất cho tôi cơ hội cứu Ai Lao với những lực lượng tôi có.
Như đă nói, trước khi có trận đánh tôi không hề thấy ai đề nghị với tôi
giải pháp nào khác. Trái lại họ họ đều nói “cần phải làm như vậy”. Không
có ư kiến nào khác dưới h́nh thức một giải pháp cụ thể, thích hợp với
nhiệm vụ và phương tiện của tôi. Điều ghi nhận này đă củng cố niềm tin
của tôi rằng không có cách nào khách hơn cái tôi đă làm.
********
Chú thích.
(1)
Commissaire general, đứng đầu về hành chính, Tư lệnh (Navarre) đứng đầu
về quân sự (chú thích của người dịch)
(2) États
associes, tức Việt, Miên, Lào. (chú thích của người dịch)
(3) Corps
de bataille Vietminh, ám chỉ các sư đoàn chính qui VM như 304, 308, 312,
316…(chú thích của người dịch)
(4) Les
moyens, gồm lực lượng, hỏa lực, đạn dược, tiếp liệu… (chú thích của
người dịch)
(5) Guerre
de movement: Chiến lược quân sự dùng di chuyển nhanh để thắng địch. (chú
thích của người dịch)
(6) Guerre
de places: chiến tranh vị trí, nơi chốn, đó là chính sách đóng đồn mà ta
thường thấy trong hai cuộc chiến Đông Dương. (chú thích của người dịch)
(7) Camp
retranché: đồn lính có nhiều công sự pḥng thủ, hào, hầm… kiên cố như
Điện Biên Phủ, trong bài này Navarre dùng chữ “đồn lũy” để chỉ ĐBP (chú
thích của người dịch)
(8) Phương
tiện rất nhiều so với nhu cầu để bảo vệ Điện Biên Phủ sau này. (chú
thích của tác giả)
(9)Trận
Châu thổ rất nặng (chap.VI), Tướng Cogny đă rất lo lắng về vấn đề này,
thậm chí đă dự tính bỏ Hà Nội. Trận đánh ở Trung Lào không kém phần gay
go. Nếu một trong hai mặt trận diễn ra với tỷ lệ lực lượng bất lợi (VM
hơn Pháp từ 15 tới 20 tiểu đoàn) chắc chắn ta sẽ thua. VM đă thắng ngoạn
mục tại ĐBP, Hội nghị Genève đă khiến họ cần phải thắng (chú thích của
tác giả)
(10) Raoul
Salan, Tư lệnh Đông Dương từ 6-1-1952 tới 8-5-1953 (chú thích của người
dịch)
(11) Khi
trận đánh đang diễn ra, Tướng Giáp trả lời phỏng vấn một kư giả CS Ư:
ông ta nói địch chiếm ĐBP không những để thiết lập căn cứ tấn công Tây
Bắc VN mà c̣n có mục đích xa hơn, nó đặc biệt của Bộ Tham mưu Hoa Kỳ, đó
là thiết lập một căn cứ không quân quan trọng nhất Đông nam Á. Ông ta
c̣n cho biết ĐBP là trung tâm một ṿng tṛn tiếp giáp phía nam nước Tầu,
Miến điện, Thái Lan. Về sau trả lời phỏng vấn một tờ tuần báo của CS
Pháp, ông ta nói : ĐBP là một địa điểm chiến lược rất quan trọng. Quân
đoàn Viễn chinh tới đó trước hết để bảo vệ Lào và chiếm lại Tây Bắc VN.
Thực hiện được kế hoạch này, địch xây dựng một căn cứ không quân và bộ
binh đe dọa hậu cứ của chúng tôi (VM) và buộc lực lượng của chúng tôi
giữa ĐBP và châu thổ BV phải phân tán (chú thích của tác giả)
Chiếm Điện Biên Phủ
Thượng
tuần tháng mười, tôi cho chiếm ĐBP và lập một căn cứ không quân tại đây
để bảo vệ Lào.
Chiến
dịch không thực hiện vội vă v́ kế hoạch đă được soạn từ mấy tháng trước.
Tôi nhớ ra vào mùa hè, tướng Cogny đă nhiều lần đề nghị với tôi, cùng
với việc rút bỏ Nasan mà ông cho là sai chiến lược và về chiến thuật mất
nhiều quân, để chiếm ĐBP nơi mà ông cho là có nhiều lợi về mọi phương
diện.
Hồi ấy
chưa thành lập đủ quân trừ bị, tôi phải hoăn thi hành chiến dịch. Nó
được dự trù tháng 12 (1953) hay tháng 1 (1954) dưới h́nh thức hành quân
phối hợp một từ Lào, một từ Lai châu trong khi lính nhẩy dù đổ xuống mục
tiêu.
Cần
phải tiến hành nhanh trước khi Quân đoàn của VM tới. Quân từ Lào c̣n xa,
ở Lai châu không đủ nên phải xử dụng không vận. Ngày 20-11 (1953) được
chọn là hạn chót để đóng quân khi những đơn vị đầu tiên của Quân đoàn VM
sẽ đến. Một tập hợp nhẩy dù gồm 6 tiểu đoàn và một đội pháo (75 ly không
giật) sẽ chiếm ĐBP trong khi quân tại Lai Châu xác định tối đa những đơn
vị địch tại vùng Tuân giao. Khi thiết lập phi trường xong, ba trong số
những tiểu đoàn nhẩy dù sẽ được đưa tới bằng không vận từ châu thổ BV.
Sau đó quân từ Lai châu sẽ được đưa tới ĐBP khi bị địch đe dọa tấn công.
Ngày
20-11, như đă tiên liệu, ba tiểu đoàn nhẩy dù được đưa tới chiếm ĐBP bị
một tiểu đoàn địa phương quân VM tấn công, địch bị bất ngờ. Tiếp theo đó
ngày 22, 23 ba tiểu đoàn nữa tới cùng với đội pháo binh. Ngày 22 đă liên
lạc với Lai châu. Ngày 24 phi trưởng đă mở, Tướng Gilles đă thực hiện
chiến dịch hoan hảo.
Tổ Chức Bộ Chỉ Huy
Trận
đánh sắp diễn ra tại Điện Biên Phủ ở cấp bậc toàn bộ chiến trường lớn
Đông Dương v́ nó có mục đích bảo vệ Lào nhưng đồng thời cũng là cách
“abcès de fixation” (tạo mủ tránh nhiễm trùng) (1) để tránh nguy hiểm
cho Châu thổ BV và Trung Đông dương. Về lư thuyết nó được giao cho một
bộ chỉ huy trực thuộc Tư lệnh.
Nhưng
bị tất cả chống đối . Điện Biên Phủ thuộc Bắc Việt, giao thông của địch
từ đầu chí cuối nằm tại đây. Về phương diện hàng không và tiếp liệu,
trận đánh phụ thuộc vào Châu thổ tại đây có những căn cứ yểm trợ. Riêng
chỉ có bộ tham mưu lục quân và không quân tại Hà Nội là có khả năng điều
khiển trận đánh v́ chỉ có họ đủ phương tiện vật chất, hiểu biết về địa
thế và quân địch.
Bởi thế
sự kết hợp giữa tướng Cogny, vị chỉ huy trưởng các lực lượng bộ binh BV
và tướng Dechaux, vị chỉ huy trưởng nhóm không quân chiến thuật BV, hai
vị đă được giao phó từ đầu chí cuối trách nhiệm trận đánh. Cơ cấu này
phù hợp nguyên tắc tổ chức, nó nằm ở dưới cấp “chiến trường lớn” (2),
các lực lượng lục và không quân hành động liên kết, không bên nào phụ
thuộc bên nào.
Thực ra,
trong sự kết hợp Cogny-Dechaux, vế thứ nhất (tức lục quân) vẫn nắm ưu
thế. Nó chịu trách nhiệm hoàn toàn trận địa và có khuynh hướng yêu cầu
không quân thi hành nhiệm vụ trực tiếp và gián tiếp phục vụ các lực
lượng bộ binh. Thế mà những nhiệm vụ này hầu như là toàn bộ hoạt động
của không quân.
Tuy
nhiên v́ lư do quan trọng của trận đánh có tầm vóc chiến trường rộng lớn
và để tránh những quan điểm bất đồng có hại giữa các vị chỉ huy bộ binh
và không quân, tôi đă biệt phái thường trực tướng không quân Bodet, có
quyền quyết định dưới danh nghĩa tôi những vấn đề ở cấp bậc của tôi. Sau
cùng tôi đă ở Hà nội nhiều ngày (3) trước và trong trận đánh và nhất là
có mặt trong những giờ phút nguy kịch.
Những
quyết định liên hệ mặt trận thường do tướng Cogny quyết định, hoặc một
ḿnh ông hay – khi nó liên quan đến không quân và bộ binh- kết hợp với
Dechaux. Khi nó ở cấp bậc Tư lệnh do tướng Bodet –hay do chính tôi khi
tôi có mặt-theo đề nghị của tướng Cogny và tướng Dechaux.
Không
hề có sự thiếu liên lạc hay thiếu kết hợp hài ḥa hành động giữa các bộ
tham mưu Sài g̣n và Hà nội như báo chí đă loan tin. Trái với những tin
đă được xác nhận nhiều lần, không hề có bất đồng quan điểm về những vấn
đề do trận đánh đặt ra giữa tướng Cogny và tôi - chỉ trừ một điểm mà tôi
sẽ nói sau.
***********
Chú thích
(1) Abcès
de fixation là cách (chữa bệnh xưa) tạo sưng mủ để khỏi làm độc chỗ khác,
nghĩa bóng là tạo một biến cố xấu để tránh một biến cố tai hại hơn, (au
sens propre, abcès créé pour fixer une infection; au sens figuré,
événement malheureux mais évitant que des événements plus graves ne
surviennent). Cụ thể ở đây có nghĩa tạo ra trận ĐBP để tránh cho Châu
thổ BV, miền Trung Đông dương khỏi bị tấn công. (chú thích của người
dịch)
(2) théâtre
d’opération, mặt trận lớn được định nghĩa là chiến trường bao gồm cả
hoạt động hành chánh (như giao thông, tiếp liệu…) và quân sự (incluant
les activités administratives concomittantes aux opérations militaires)
(Chú thích của người dịch)
(3) Hồi đó Phủ Tổng Ủy, bộ Tư lệnh quân đội Pháp và Chính phủ Quốc gia
VN đều đóng ở Sài g̣n, Sài g̣n giống như Thủ đô của VN.
(chú thích của người dịch)
Sơ Khởi Về Trận Đánh
Những
ngày đầu tháng 12(1953) tiền quân của Sư đoàn 316 xuất hiện gần Lai Châu.
Tướng Cogny, mới đầu có ư định, được sự đồng ư của tôi, giữ Lai châu và
chơi nước đôi Lai châu-ĐBP càng lâu nếu có thể, nhưng nay quyết định cho
di tản Lai châu ngay. Thật vậy hiện ông chỉ muốn tập trung pḥng thủ một
ĐBP độc nhất. Chủ lực quân tại Lai châu được không vận tới ĐBP ngày
8-12. Những đơn vị phụ lực khác tới sau bằng đường bộ. C̣n lại đi đường
rừng.
Từ ĐBP,
tướng Cogny nay hy vọng có thể mở “những cuộc tấn công mạnh” mục đích
làm chậm lại việc đóng quân của địch. Sư thật những hoạt động này chỉ
chỉ giới hạn ở việc tuần tiễu và trinh sát lanh quanh thôi. Đúng vậy
nhưng hoạt động quan trọng nhất, sâu xa nhất chẳng bao lâu chỉ là không
phù hợp đối với ông, v́ những chủ lực quân cần có, với những công việc
cần thực hiện ngay để làm cho căn cứ có thể đương đầu với cuộc tấn công
của địch có thể sẩy ra rất nhanh. Vả lại trong những cuộc chạm địch của
những đội thám sát, khả năng tác chiến trong rừng của quân ta yếu kém
rơ rệt.
Vào
ngày 8-12 (1953), đại tá de Castries thay thế tướng Gilles trong chức vụ
chỉ huy đồn lũy. Tôi nghĩ ở đây cần phải nói những lư do thực sự về việc
thay đổi cấp chỉ huy này mà nó đă có nhiều phê phán sai lạc hay có chủ
đích riêng.
Tướng
Gilles thường chỉ huy toàn thể binh chủng nhẩy dù tại Đông dương. Ông
chịu trách nhiệm về huấn luyện và thành lập những đơn vị mới mà kế hoạch
đă dự trù, ông không thể xa bộ chỉ huy của ḿnh lâu dài mà không gây trở
ngại. Do đề nghị của tướng Cogny, tôi chỉ định đại tá de Castries thay
thế ông. Việc lựa chọn này đă là đề tài của nhiều chỉ trích
Người
ta nói tại sao lại chọn một kỵ sỹ trong khi một đồn lũy thường là cần
một người bộ binh? Bởi v́ cả tướng Cogny và tôi không có tinh thần phân
biệt binh chủng, và v́ đại tá de Castries đối với cả hai chúng tôi có lẽ
là người có khả năng nhất để bảo vệ ĐBP mà chúng tôi mong đợi. Chúng tôi
không chỉ định “v́ là kỵ sĩ” cũng không phải “dù là kỵ sĩ”.
Người
ta cũng hỏi là tại sao lại cho một đại tá làm chỉ huy trưởng mà thường
phải là một ông tướng? Bởi v́ tại Đông dương thiếu sĩ quan cấp tướng
trầm trọng, một đại tá lănh nhiệm vụ chỉ huy của cấp tướng là b́nh
thường- và cũng v́ tướng Cogny và tôi không có tinh thần phân biệt binh
chủng, không sung bái những ngôi sao (1)
Dù sao,
tôi quả quyết rằng không thể cử ai – dù là một ông tướng hay một người
bộ binh – có thể làm hơn được đại tá de Castries.
Để phụ
giúp ḿnh, người chỉ huy đồn lũy lập một bộ tham mưu theo kiểu mẫu của
sư đoàn. Một phân đội liên lạc với không quân cũng được lập dành cho ông.
Nhiều
tin tức dần dần cho biết những lực lượng quan trọng của Việt Minh tiến
về miền Thượng du với tiếp liệu lớn chưa từng thấy của họ.
Ba sư
đoàn rưỡi (316-308-312 và một phần của 304) đang trên đường tới Tây Bắc.
Những dấu hiệu cho thấy có thể có Sư đoàn nặng 351 (2)
Viện trợ
của Trung cộng cho VM gia tăng rất mạnh, có nhiều dấu hiệu cho thấy vũ
khí đạn dược được chở tới biên giới BV. Khoảng 75,000 dân công có thể
được tập trung tại Thượng du nhờ Tầu cung cấp gạo và phương tiện chuyên
chở (3). Tái tạo khoảng 200 km đường giao thông cho xe ô tô vận tải và
làm thêm hàng trăm km đường nữa (4)
Rơ ràng
là VM đă tạo được một đường giao thông từ đâu chí cuối bằng ô tô. Con
đường này dài khoảng 350 km, bắt nguồn từ biên giới Tầu tại Lạng sơn,
Cao bằng, đi ṿng châu thổ (Delta, BV) qua Thái Nguyên, Tuyên quang,
Yên bái (tại đây qui tụ một đường tiếp tế khác xử dụng được bằng sông
Hồng từ Lào Kay), rồi qua một đường giao thông mà đa phần kiến tạo bằng
nhiều đoạn, nối tiếp R.P.41 (Ḥa b́nh-Lai châu) gần Na San và đạt tới
Tuần Giao, tại đây họ lập một căn cứ hậu cần quan trọng để tiêp tế cho
Quân đoàn bao vây ĐBP (5).
Hai
đường giao thông nữa cũng tới điểm này, một cũng từ bên Tầu qua Ban Nam
Coun và Lai Châu nhưng bằng những đường ṃn xấu hoặc những đường thủy
loại thường, lưu thông kém (6). Mục đích lấy thêm gạo ăn. Đường kia từ
Thanh Hóa qua thung lũng sông Mă. Năng xuất của nó cũng rất thấp.
Không
quân Pháp tận dụng để ngăn chặn những đường giao thông, vận chuyển và
tấn công các đoàn xe vận tải qua lại. Đó chỉ là vô ích. Những đoạn đường
bị cắt được sửa chữa rất nhanh. Những xe cam nhông, xe đạp thồ và đoàn
dân công khiêng vác chỉ đi ban đêm và khi thời tiết xấu ngăn không cho
phi cơ bay lên hoặc họ ngụy trang rất khéo khiến trinh sát của ta không
thấy được. Không quân của ta hiển nhiên là không đủ để đạt kết quả
mong muốn. Trước t́nh trạng này, cuối tháng 12 (1953) tôi cảm thấy lo
âu và lưu ư Chính phủ (Pháp) về sự đe dọa đè nặng xuống ĐBP và tôi nhấn
mạnh đặc tính mới của mặt trận là viện trợ Trung cộng cho VM ồ ạt.
Trong
một bức thư ngày 1-1-1954, tôi nói “trong trường hợp có cuộc tấn công,
ta có hy vọng thắng không? chỉ c̣n hai tuần nữa, tôi ước lượng một trăm
phần trăm. Đó là trận đánh do ta lựa chọn chiến địa và trong điều kiện
thuận lợi chống kẻ địch sở hữu những phương tiện mà ta biết tới ngày
15-12 (1953). Nhưng trước những phương tiện mới mà tin t́nh báo nghiêm
chỉnh cho biết, tôi không thể bảm đảm chắc chắn thắng lợi nữa. Trước hết
là trận chiến không quân” và nói xa hơn “Nếu thua trận chiến không quân,
nghĩa là địch xử dụng những vũ khí nặng (7), tôi không thể bảo đảm chiến
thắng. Mà không quân ta rất yếu lại phải đảm nhận một trọng trách to lớn”
Bởi thế
tôi xin tăng cường không quân ngay và kết luận “Tôi coi như chủ lực quân
tập trung tại ĐBP, là điều cần và đủ để bảo vệ Thượng Lào và giữ sự
hiện diện của ta tại Thượng du. Sự đóng quân này sẽ đạt nhiều lợi ích
lớn nếu ta thắng trận ĐBP. Nếu ta thua trận ĐBP sẽ là một thiệt hại lớn
lao. Trong mọi trường hợp đóng vai tṛ “tạo mủ để tránh nhiễm trùng” và
có thể tránh trận đánh lớn vào Châu thổ.
Bức thư
ấy không được phúc đáp, ông M.Marc Jaquet, Bộ trưởng các Nước liên kết (Việt,
Miên, Lào) trong một chuyến sang Đông dương sau đó không những chỉ nói
cho tôi biết nguyên văn Chính phủ coi đó là “rất bi quan”, họ vẫn c̣n
sảng khoái lạc quan từ chiến dịch mùa hè, mà một thành viên quan trọng
của Chính phủ đánh giá đó chỉ là “tiểu thuyết trinh thám”
Tướng
Bodet, phụ tá của tôi mà tôi đă phái về Paris để tường tŕnh hiện t́nh
lên Chính phủ và Thượng cấp, được một thỏa thuận trên nguyên tắc về một
số bổ sung không quân, nhưng việc gửi đến gặp rắc rối khi thảo luận với
Mỹ là chỗ cung cấp máy bay, quá chậm trễ nên khi trận đánh diễn ra mới
gửi tới - quá trễ để đóng vai tṛ hữu dụng.
* * *
Trong
thời gian hai tháng khi VM đă sắp đặt vị trí, chuẩn bị tác chiến, ta đă
thực hiện được tại ĐBP một pháo đài thật mạnh.
Ngày
25-12 chúng tôi đă phối hợp tại Sop Nao những lực lượng di động của đồn
lũy và những lực lượng tại Thượng Lào, trong khi ấy có đi qua Thượng Nam
Ou. Trong dịp liên kết này những lực lượng Lào đóng giữa đồn lũy và Sop
Nao gồm địa phương và t́nh báo.
Phía VM
họ bắt đầu chiếm hết vùng xung quanh ĐBP và và bắt đầu thực hiện ṿng
vây gần như liên tục, tuy nhiên họ không tiến gần đụng chạm với vị trí
cùa Pháp.
Vào
ngày 20-1 (1954) cho thấy sắp có cuộc tấn công nhất là đêm 25, 26, hay
đêm sau. Việc di chuyển đặt súng pháo, đạn dược và các đơn vị bộ binh
được thực hiện trong ngày 25, 26. Họ bị pháo của ta và không quân bắn
chống lại công tác đặt pháo.
Không
thấy có tấn công. Lư do chính sự hủy bỏ lệnh tấn công này có lẽ do chưa
đủ phương tiện-nhất là tiếp tế đạn dược- mà địch chưa tập trung được.
Mặc dù viện trợ của Trung cộng rất nhiều cho tới hôm đó chưa đủ lượng
lớn để VM mạnh khả dĩ chiếm được đồn lũy kiên cố như tại ĐBP.
Cuối
tháng 1 (1954) tin t́nh báo khả tín cho hay địch đă hoăn cuộc tấn công,
có thể từ bỏ không muốn đánh hoặc sẽ đánh Thượng Lào. Nguồn tin này được
khiểm tra lại ngay. Sư đoàn 308 rời Quân đoàn bao vây ĐBP, được tăng
cường Trung đoàn độc lập 148 tiến về Luang Prabang . Được báo tin kịp
thời, các lực lượng của ta tại Thượng Nam Ou tránh né, một phần xuống
Luang Prabang, một phần về Muong Sai, chỉ có hậu quân bị đánh quấy phá
Sư đoàn
308 dấn bước tiến tới Nam Bac, tới chỗ nửa đường giữa ĐBP và Luang
Prabang phần v́ sợ không quân ta, và nhất là thiếu tiếp tế nên phải dừng
lại. Trong khi đó đại tá de Castries cho đạo quân tiền sát mạnh thăm ḍ
quanh ĐBP. Họ đụng trận khắp nơi với những đơn vị mạnh, pḥng thủ vững
của địch và chúng tôi bị thiệt hại nặng. Hiển nhiên là ṿng vây quanh
đồn lũy c̣n hai sư đoàn nữa và sư đoàn nặng, không có một kẽ hở nào(8)
Chính
vào lúc này đă sẩy ra biến cố, mà tôi đă đề cập ở chương trước có ảnh
hưởng quyết định tới kết cuộc của trận đánh và nó đă cho ĐBP một khía
cạnh hoàn toàn mới: Thông báo về Hội nghị Genève (18-2)
Từ ngày
23-2 chúng ta được biết Sư đoàn 308 từ xa quay trở lại ĐBP để gia nhập
Quân đoàn bao vây. Những dấu hiện về cuộc tấn công đồn lũy sắp diễn ra
ngày một nhiều hơn, địch bắt đầu bắn quấy phá vị trí ta bằng những khẩu
pháo riêng lẻ và bắn từ nhiều chỗ khác nhau. Họ xiết chặt dần ṿng vây
gần hơn, đóng quân dầy đặc những sườn đồi phía Bắc và Đông Bắc ḷng chảo.
Địch đặt tại đó những đài quan sát pháo binh và pḥng không.
Chúng
tôi được tin những đợt chuyên chở đạn dược ngày một quan trọng từ bên
Tầu vào BV cũng như những vũ khí mới, nhất là trọn một tiểu đoàn pḥng
không (được đưa qua biên giới cuối tháng 2). Chúng tôi được biết địch
thành lập những đơn vị tăng cường trích ra từ quân trừ bị và từ những
đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV rồi hối hả tiến về ĐBP.
Trên các
tuyến đường giao thông, xe vận tải chạy ngày đêm mặc dù bị thiệt hại do
máy bay oanh kích nhưng không quân Pháp thiếu thốn nhiều.
Những
ngày đầu tháng 3 (1954), cuộc tấn công đồn lũy chắc chắn sẽ vào ngày 15,
đồng thời ta cũng biết VM sẽ tấn công trên khắp các mặt trận cùng ngày
mục đích cầm chân bộ binh và không quân ta. Lănh đạo việc pḥng thủ ĐBP
trong những điều kiện đă được xác định bởi chỉ thị ngày 25-1. Chỉ thị
này tiên liệu riêng tại Hà Nội sẽ thành lập năm tiểu đoàn nhầy dù trừ bị
- trong đó hai tiểu đoàn lấy từ Cao nguyên - để can thiệp cho đồn lũy
khi cần.
************
Chú thích
(1) des
étoiles, ư nói cấp tướng (chú thích của người dịch)
(2) Sư đoàn
vũ khí nặng: pháo binh và pḥng không (chú thích của người dịch)
(3) Người
ta ước lượng, cho tới khi đó, tại Thượng du VM chỉ có thể huy động tối
đa 20,000 dân công v́ thiếu gạo và phương tiện vận chuyển. (chú thích
của tác giả)
(4) Tháng
4-5 năm 1956, tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và
Paris-press, ông ca ngợi thành quả đạt được do nhân dân dành cho quân
đội, người ta nh́n nhận nỗ lực lớn lao này và cảm phục sự lănh đạo của
Chính phủ (VM) đă đạt được. Nếu không có viện trợ khổng lồ của Trung
cộng th́ mọi nỗ lực chỉ là vô ích. (chú thích của tác giả)
(5) Mặc dù
ĐBP rất gần biên giới Tầu (80km) nhưng đường tiếp tế chính thực ra rất
xa, bắt đầu từ Lạng Sơn, Cao Bằng, nó băng ngang BV tới ĐBP dài 350
km, gấp mấy lần khoảng cách từ ĐBP tới biên giới Tầu theo đường chim
bay (chú thích của người dịch)
(6) Người
ta nhận xét sai ở điểm v́ ĐBP gần biên giới Tầu (80 km) có lợi cho VM.
Sự thực không phải v́ nước Tầu gần ĐBP mà viện trợ lớn đă mang lại (chú
thích của tác giả)
(7) Trung
Cộng mới cung cấp cho VM nhiều súng cao xạ tối tân có khả năng bắn hạ
nhiều phi cơ Pháp (chú thích của người dịch)
(8) Trái
với một số nhận định quả quyết, không thể di tản khỏi ĐBP được vào thời
điểm này. (chú thích của tác giả)
(dịch
nguyên văn từ trang 188 tới 212 trong Agonie de l’Indochine gồm các
đoạn: Pourquoi Dien Bien Phu?; l’Occupation de Dien Bien Phu;
l’Organisation du commandement; Les Préliminaires de la bataille)
Trọng Đạt
(c̣n tiếp) |