
Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với
cựu Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân
đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đă có rất nhiều
người hỏi ông: “Có phải TT Thiệu rút bỏ
Quân đoàn 2 tại Pleiku, Kontum giữa tháng
3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ,
khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy vào?”
Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp
xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu
rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất
bại và ông có gợi ư tôi viết về chủ đề này.
Đại Tá Lê Khắc Lư nói ông đă đậu thủ khoa
Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng ở Việt Nam năm
1972 và đă đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học
cao nhất là "Trường Đại Học Chỉ Huy và Tham
Mưu Lục Quân Hoa Kỳ" tại Fort Leavenworth,
Kansas (US Army Command and General Staff
College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham
Mưu Command and General Staff College này,
ông đă học nguyên tắc chiến thuật (tactical)
căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn
chiếm giữ "high ground" (vùng cao) để chế
ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi
giảng, "thầy" cũng có nói nguyên tắc này
cũng áp dụng cho "chiến lược" (strategy) nữa.
Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi
1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này.
Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên là sai
lầm. Rồi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải
sẽ đánh ngược lên để gọi là "tái chiếm Ban
Mê Thuột" là chuyện quá khó nếu không nói là
"không tưởng".
Tóm lại TT Thiệu đă sai lầm về chiến thuật
chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng
bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê
Thuột.
Trên thực tế nhiều người cũng đă nghi ngờ
ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên.
Khoảng năm 1975, 1976 khi chúng tôi ở trong
trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông
Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua
luôn cuộc chiến.
Sơ lược tái phối trí
Trước hết tôi xin sơ lược về cuộc triệt
thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể
của kư giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các
vị Tướng lănh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc, có
tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như
chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đă bị
thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng
nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan
cuối. Người ta kết án TT Thiệu đă làm sụp đổ
cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền
nam.
Sau ngày Kư Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc
hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50%
khiến cho miền nam VN lâm vào t́nh trạng
thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu
đạn dược.
Ngày 11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận
t́nh h́nh với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm,
Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn
Quang. Ông Thiệu cho biết với khả năng hiện
có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả
lănh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để
bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan
trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu
không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng
2, Ban Mê Thuột quan trọng sẽ phải chiếm lại,
miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay
phần nấy.
Ngày 12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân
viện bổ túc đă bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài
ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới,
nghĩa là từ nay sẽ không cho một xu viện trợ
nào. Tin sét đánh đă khiến TT Thiệu bị mất
tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.
Ngày 13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông
Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp
quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm,
Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú,
Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời
kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết
Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam
kết yểm trợ không lực, lănh thổ pḥng thủ
quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng.
Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2
phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên hải,
Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban
Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư
đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt
động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ binh
và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS)
Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống
Thiệu bác bỏ, ông c̣n cho biết Tướng Phú
phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh
trưởng, Quận trưởng biết, họ phải ở lại
chiến đấu. Các vị Tướng lănh không có ai
phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về
buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời
khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng gần
giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại
chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời
Phạm Huấn.
Trong buổi thảo luận ông Cao Văn Viên cho
biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể
xử dụng được v́ đường 14 từ Pleiku tới Ban
Mê Thuột đă bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku
với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi,
đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài
đường số 7 xuống Tuy Ḥa không c̣n đường nào
khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất ngờ
nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức hóa và giữ bí mật cho
tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là
Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở
đường, thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo
vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết
giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.

Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku
gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh,
khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi
trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm
Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một
đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu
êm xuôi v́ bất ngờ.
Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh
c̣n lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng
250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đ́nh binh sĩ
chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho
cuộc triệt thoái.
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân
đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ
ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu
Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được v́ công
binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối
ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây
thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại
đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê
Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt
thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi
tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3
một số lính địa phương quân người Thượng
cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm
hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân,
thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV
cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị
bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.
Đoàn quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi
được 20 km th́ phải đi chậm lại v́ Phú Túc
phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa
chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ
nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử
thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này
lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn
loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu
đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được
giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn
cách Tuy Ḥa 65 km đoàn di tản phải băng qua
sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu
lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong
đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về
Tuy Ḥa, v́ xe cộ quá đông cầu bị sập chết
nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.
Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Ḥa rất
cam go v́ có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh,
VC pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta.
Tiểu khu Tuy Ḥa không c̣n quân để tiếp viện
nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các
binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ liều
mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với
chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày
27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn
di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300
xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được
Tuy Ḥa.
Đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng
quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê
Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ
hai ngày là đă đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân
pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn
di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn
đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ,
tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu
Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh
thần c̣n to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ
lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Ḥa, 5
Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ c̣n 900 người.
Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay
chỉ c̣n 13 chiếc M-113.
Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng,
khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư
đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công
binh… bị hủy hoại trong ṿng có 10 ngày. Kế
hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực
hiện được v́ không c̣n quân.
Tái phối trí lực lượng có mục đích co cụm
lại v́ không đủ lực lượng trải rộng toàn
lănh thổ.
Những nguyên do thất bại chính của cuộc di
tản có thể gồm:
- Di tản quá gấp rút, cả một quân đoàn quá
đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và
người chạy loạn.
- Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng
khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.
- Dân chúng di tản làm náo loạn mất tinh
thần quân đội.
- Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui
binh v́ quá gấp rút.
Thực ra cuộc di tản thất bại nặng nề v́ xui
xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng
quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối
16-3 Văn Tiến Dũng đă điều động, đốc thúc
đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt
kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đă pháo kích
gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp,
pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ ta không có
tin t́nh báo chính xác về vị trí các đơn vị
Cộng quân.
Ngoài ra theo lời kể của một một nhân dân tự
vệ cùng gia đ́nh từ Kontum di tản trên đường
số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di
tản trước nên phần nhiều chạy thoát khỏi
cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân
Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40 cây số khi
biết Pleiku di tản th́ cũng ùa chạy theo, v́
chạy sau họ bị VC đuổi kịp pháo kích dữ dội,
khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một
vùng đất trũng. Đạn pháo khiến bụi bay mù
mịt, không ai thấy ai chỉ thấy đạn pháo nổ
ấm ầm ghê rợn, người chết v́ pháo kích,
người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân
chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít
v́ họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân
đa số là dân Kontum. Kư giả chiến trường
Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.
Giả thuyết
Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lư,
Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin
góp ư thêm về giả thuyết này.
Như chúng ta đă thấy, ông Thiệu lệnh cho cả
một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ
Pleiku, Kontum xuống Tuy Ḥa phía đông, rồi
từ Tuy Ḥa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại
từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây.
Chặng đường hành quân h́nh chữ U rất dài và
tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt
quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại
viễn vông cho thấy ông Thiệu có mục đích
tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích
quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo kế
hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện
trong khi ta đang thiếu thốn về mọi mặt.
Ngoài ra tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan,
ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương.
Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang
Sài G̣n thuyết tŕnh cho ông Thiệu biết BV
đă nhượng bộ những đ̣i hỏi chính mà họ đă
dai dẳng đ̣i từ mấy năm qua: Không đ̣i lật
đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng ḥa
giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ
không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là
ộng Thiệu sẽ đồng ư kư bản Dự thảo đă soạn
chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định kư
25-10, trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông
Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích
Kissinger. Nixon khuyên Kissinger không nên
ép Thiệu v́ Nixon không muốn Hiệp định được
kư trước bầu cử, qua thăm ḍ Nixon biết chắc
sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.
Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu
mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh
lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH kư bản
Hiệp định bất b́nh đẳng, mục đích để vận
động cánh tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành
pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No
More Vietnams trang 152), nếu đ̣i điều kiện
BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ
không chịu kư. Đó là một điều nguy hiểm, nếu
VNCH gây trở ngại ḥa b́nh th́ Quốc hội thù
nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật
chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam,
thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù
binh Mỹ.
Người Mỹ coi việc lấy 580 người tù binh là
quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên
cả sự sống c̣n của Đông Dương, TT Nixon,
Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả
nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế.
Cuối tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT
Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải kư Hiệp
định Paris mục đích vận động phe diều hâu
bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.
“Sài G̣n như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư
sẽ khiến cánh hữu áp lực ṭa Bạch Ốc không
bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe
dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá sai lầm
lớn, câu chuyện không được chú ư tới”
(Saigon apparently assumed that an
“ultimatum” story would encourage America ’s
right wing to apply pressure on the White
House not to abandon a beleaguered ally
threatened by Communism. It turned out to be
a gross and embarrassing overestimation. The
Story caused barely a ripple - Marvin Kalb,
Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).
Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới
Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu
biết đừng hy vọng ǵ vào sự ủng hộ tại chính
trường Mỹ, nay diều hâu đă đổi lông đổi cánh
biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch
chỉ t́m cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ
nay số người c̣n ủng hộ chiến tranh Đông
Dương chỉ c̣n đếm trên đầu ngón tay trước
hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một
số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger.
Người dân và Quốc hội đă quá chán ngấy cuộc
chiến sa lầy đến tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ
nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin,
ông vẫn chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ
miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.
V́ quá chủ quan nên tháng 3-1975 ông đă sai
lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột
nhẩy vào.
Trên đây chỉ là những giả thuyết về việc
Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng
minh.
Kết Luận
Tuy nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu
cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới
sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông
chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự
kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối
trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính
ông Tướng này đă nói nếu được tiếp viện có
thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là hy
vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu
miền Nam đang lâm vào t́nh trạng kiệt quệ.
Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền
Nam tháng 4-1975, một phần v́ sự sai lầm của
TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của
ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối
phương. Người ta thường nói v́ ông Thiệu sai
lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc
nói v́ ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất
miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.
Xin nói sơ về thực trạng bi đát này do hậu
quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm
1974, 75.
- Trước hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối
của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong
tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các
loại súng lớn, súng nhỏ chỉ c̣n đủ xài 30
ngày.
- Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm
Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào
ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu
cứu TT Ford về t́nh trạng nguy khốn của VNCH.
Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới
trong Years of Renewal trang 490 như sau.
“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của
địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh
và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN
đă phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm
để c̣n đạn xử dụng” (He described the
intensity of the North Vietnamese attacks,
backed by the “massive application of fire
power and armor”. By contrast, the South
Vietnamese troops “had to count every single
shell they fired in order to make the
ammunition last)”.
- Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập
cùa CS viết về t́nh trạng khó khăn của VNCH.
“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm
mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh
hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư
(3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật
hàng ngày của Ngụy giảm chỉ c̣n một phần năm
(1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so
với thời kư chiến tranh trước đây giảm 70%,
trực thăng giảm 80%...Kho bom đạn Ngụy giảm
mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo
tŕ, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu
thuyền, vũ khí nặng…"
Years of Renewal trang 480
Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân
đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong
cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên
trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác
giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ
tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta
chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ
bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng
trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực
đă giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ
dồi dào.
Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng
và các nước xă hội chủ nghĩa viện trợ
684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ
nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng
hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương
nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006).
Theo Kissinger, Hà nội đă xin được viện trợ
của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974,
một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần
đầu tiên kể từ sau ngày kư Hiệp định Paris .
Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới
tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV,
nay họ băi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đă
chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng
gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga
khuyến khích BV gây hấn
(Years of Renewal trang 481).
Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm
12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên
đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất
so với các Quân khu khác nên CS đă chọn để
tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm
cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.
Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10,
320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập
(25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công
(14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ.
Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh
(Theo Dương Đ́nh Lập, Trần Minh Cao, Cuộc
Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975,
trang 90, 91.)
Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên
và giao cho Tướng Phú tử thủ th́ cũng chỉ
giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không
quá một tháng v́ như đă nói trên miền Nam đă
bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực
mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.
Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin
TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết
tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa
cũng không cứu được Quân khu, không cứu được
miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn
một chút.
Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn
công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta
lâm vào t́nh trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải
xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ
tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đă bác bỏ tất
cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN.
Đảng Dân chủ đă thắng lớn trong cuộc bầu cử
Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ
viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống
chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi
ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên
thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số
người ủng hộ chiến tranh VN chỉ c̣n vài
người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford.
Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ
tá của Tổng thống cũng đă căn ngăn ông đừng
can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội
thù nghịch như ta đă biết thái độ của họ rơ
ràng là “Sống chết mặc bay”.
Cựu Đại Tướng Cao văn Viên cho biết
“Nghĩ lại việc đă qua, câu hỏi là miền
Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng
kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay
không. Bây giờ nói th́ sự đă rồi, nhưng tác
giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu
không thực hiện tái phối trí. Tinh thần
chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị
hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế
hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có
lẽ quân đội của chúng ta không tan ră nhanh
như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của
sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác
vẫn c̣n nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột
Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ
trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II.
Vùng II vẫn c̣n Sư đoàn 22BB, cộng thêm với
một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ
binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có
đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến
hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí,
tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành
công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như
họ đă làm ở vùng I. T́nh h́nh quân sự nhân
lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng
như trước khi có quyết định tái phối trí:
thiếu thốn về quận viện; không c̣n nhân lực
để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng
ít ra quân đội VNCH sẽ không tan ră nhanh
chóng như khi quyết định tái phối trí được
thực hiện”.
Những Ngày Cuối của VNCH, trang 134
Theo ông Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê
Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân
khu 2 c̣n tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu
không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam
sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực th́ chẳng có
cơ hội nào cả v́ cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ
thượng tuần tháng 11-1974 đă là bản án tử
h́nh cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ phản
chiến đă chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%,
họ nắm giữ túi tiền, họ nắm giữ sinh mạng
của cả Đông Dương. Hạ viện đă hai lần trả
lời miền Nam xin viện trợ bổ túc tháng
3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một
cách thẳng thừng “Sống chết mặc bay”
Tôi xin ngược ḍng thời gian một chút để vấn
đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm
kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu,
hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ
thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng
hộ ông v́ ông sắp mang lại ḥa b́nh, nhưng
họ chống lại ông v́ ông c̣n tiếp tục ủng hộ
cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng
đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon.
Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số
người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh
chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi ấy
số phận Đông Dương đă bắt đầu ngắc ngoải.
Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng
thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn
trước. Từ 1969, 70..biểu t́nh tiến tới giai
đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh
sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom
lớp học (No more Vietnams , trang 126-127).
Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.
Đứng trước sự chống đối ngày càng mạnh của
phong trào phản chiến, họ đ̣i phải ra khỏi
cuộc chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và
Kissinger, người phụ tá cố t́m lối thoát, mở
cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút
quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng
thực ra t́nh trạng ngày càng bi đát, mọi cố
gắng của Nixon và Kissinger cũng chỉ là giải
pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp
cho Đông Dương và miền Nam sống thêm ngày
nào hay ngày nấy.
Sự ngoan cố của Hà nội đă khiến ḥa đàm
Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đă
dội 20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải pḥng
cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ
BV để cho họ được ở lại miền Nam v́ bị Quốc
hội thúc ép phải kư. Lập pháp luôn hăm dọa
ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ
VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi
kư Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội
hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng kư xong, họ
trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói
tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật
cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng
như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông
Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ c̣n đi
xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power
Act hạn chế quyền Tổng thống, trước khi gửi
quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi
Quốc hội.
Trói tay hành pháp bằng các luật mới như
trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều,
làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp
định. Quốc hội thù nghịch và phong trào
chống đối t́m cách loại bỏ Nixon v́ ông vẫn
là trở ngại ḥa b́nh. Mặc dù đă kư Hiệp định
ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và
Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới h́nh
thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to
enforce the agreement), trừng trị mọi vi
phạm của CS bằng B-52, hai người đă lên kế
hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đă mang lại
ḥa b́nh, họ chống đối hành pháp mạnh hơn
trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ
Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày
8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau,
7-11-1974, họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện,
Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm
1972 tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng
ḥa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống
c̣n 144 ghế (33.1%) năm 1974.
Nay những người Dân chủ mới, kiên quyết
chống chiến tranh Đông Dương đă vào Hạ Viện,
số phận của ba nước Việt Miên Lào đă được
quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện
trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975,
và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc
300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của
VNCH đă bị bác bỏ không thương tiếc.
Trở lại vấn đề đang bàn trên đây, dù TT
Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng
không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không
bao giờ miền Nam VN c̣n hy vọng được Hoa Kỳ
cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng.
Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược
bánh xe lịch sử, người Mỹ đă quá ghê tởm
cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Tác giả Walter Isaacson trong Kissinger, A
Biography trang 487có nói
“Một khi người Mỹ đă t́m được con đường
ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân
đều đă không muốn can thiệp trở lại, dù có
hay không vụ Watergate. . . Bất kể có
hay không có vụ Watergate, người Mỹ không
c̣n muốn dính dáng ǵ với Việt Nam ”
(Once America had found a way to disengage
from Vietnam , neither the Congress nor
public would have permitted a reengagement,
with or without Watergate. . . Irrespective
of Watergate, Americans wanted nothing more
to do with Vietnam ).
Trọng Đạt
Tham Khảo
Phạm Huấn:
Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam
Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
Hoàng Lạc, Hà
Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật
Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức
Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập,
1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ
Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và
Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê
Hương 2006
Dương Đ́nh Lập:
Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân
1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005
Phạm Bá Hoa:
Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt
Dallas 19-3-2004
Hồi Kư Của
Trung Uư D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên
Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon &
Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon
& Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon,
Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free
press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor
House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger;
Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S.
Bowman - General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement
in the Vietnam war |